TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
CÓ PHẢI DO TÂM LINH MÀ MIẾU TRUNG LIỆT Ở GÒ ĐỐNG ĐA BỊ PHÁ DỠ?
CÓ PHẢI DO TÂM LINH MÀ MIẾU TRUNG LIỆT Ở GÒ ĐỐNG ĐA BỊ PHÁ DỠ?
TỪ: Vanvn- Cập nhật ngày: 11 Tháng 7, 2025 lúc 07:07
Hiện nay, miếu Trung Liệt trên đỉnh gò Đống Đa chỉ còn sót lại cổng miếu với dòng chữ “Trung Liệt miếu” và cầu thang dẫn lên. Chính điện ngôi miếu thì không còn nữa, chỉ còn lại nhiều hàng gạch vuông vốn là nền miếu.
Trung Liệt miếu ban đầu được xây vào năm 1685 (năm Chính Hòa thứ 6) tại nơi mà nay là phố Nguyễn Khuyến, gần Văn miếu. Miếu thờ các công thần nhà Lê, đầu tiên là Lê Lai. Hàng năm cứ đến ngày rằm tháng Giêng, vua lại ngự giá cùng bá quan văn võ đến miếu Trung Liệt tham bái tưởng niệm. Trong sử cũ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ghi rõ: “Vị chính giữa thờ Võ Thành vương Thái công Vọng, còn từ Tôn Võ Tử, Quản Tử trở xuống 18 người phối thờ ở hai bên đông vũ và tây vũ. Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn được thờ theo vào Võ Miếu…
Cổng miếu Trung Liệt trên đỉnh gò Đống Đa. Ảnh: Wiki.
Từ thế kỷ 19, miếu được di dời tới đỉnh gò Đống Đa, và thờ các vị quan nhà Nguyễn đã hy sinh trong chiến đấu, như Nguyễn Tri Phương cùng người con trai là Nguyễn Lâm, Hoàng Diệu, Trương Quốc Dụng, Đoàn Thọ, Nguyễn Cao. Đến năm 1946, bài vị của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) được đưa vào thờ ở Trung Liệt miếu. Như vậy có thể thấy, miếu Trung liệt có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người xưa. Vậy tại sao nó bị bỏ bê hoang phế rồi bị phá dỡ? Nhiều người đặt câu hỏi, phải chăng do vấn đề tâm linh khi miếu được dựng trên đỉnh gò Đống Đa, nơi mà trong quan niệm của nhiều người, vốn là ngôi mộ khổng lồ chôn xác giặc Thanh?
Thực ra, trước đây đã từng có những tranh cãi về bản chất hình thành của gò Đống Đa. Nhiều người và tài liệu, sách báo, thường vẫn coi đây là “quả gò thứ 13” thuộc 12 quả gò làm bằng xác quân Thanh chết trận, được vua Quang Trung cho gom lại, đắp nên. Sở dĩ gọi gò bằng con số 13, là vì có thuyết cho rằng: Vào năm Tự Đức thứ tư (1851), khi quan Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai cho mở đường, mở chợ qua “xứ Đống Đa”, vẫn thấy nhiều xương cốt, nên đã cho thu thập, đắp điếm thêm và thành một quả gò nữa. Chính là quả gò đang mang tên là Đống Đa bây giờ.
Nhưng tranh cãi đã khép lại khi có những bằng chứng rõ ràng rằng con gò này vốn là gò thiên tạo, và nó đã có từ trước trận chiến chống giặc Thanh của vua Quang Trung. Theo GS sử học Lê Văn Lan, Gò Đống Đa là một cao điểm tự nhiên, bằng chứng là chùa Càn An, được xây dựng từ năm 1621 ở phía bắc gò Đống Đa, chỉ cách gò khoảng 300m, có tấm bia đá ghi rõ về cao điểm này, là: “Trước mặt (chùa) có ngọn núi đất (thổ sơn) ở về phía nam”. Ngôi chùa này được xây dựng trước đại thắng quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789) rất xa, vì thế, chắc chắn rằng, Gò Đống Đa là gò thiên tạo, mà theo các nhà khảo cổ thì đó là chứng tích của những doi đất ven sông Tô Lịch cổ.
Việc những hài cốt phát lộ dưới chân Gò Đống Đa được GS Lê Văn Lan lý giải rằng, thực ra thì 12 gò hài cốt quân Thanh là do Tổng đốc Đặng Văn Hòa, vào thời Thiệu Trị (1840-1847) sau thời Quang Trung cả nửa thế kỷ đã cho gom đắp nên. Những “đống xương vô định” này nhỏ thôi, cho nên đã dễ bị đời sau san bằng. Kinh lược sứ Nguyễn Đăng Giai, vào năm Tự Đức thứ tư (1851) chỉ cho chôn những chiếc tiểu sành đựng cốt người tìm thêm được, mà ngày nay thỉnh thoảng vẫn phát lộ ra ở một vài nơi quanh chân gò.
Nếu gò Đống Đa không phải ngôi mộ khổng lồ chôn xác giặc Thanh, thì lý do gì khiến Miếu Trung Liệt bị bỏ bê, hoang phế rồi phá dỡ?
Quan Khâm sai Kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải, có dinh thự ở “Ấp Thái Hà”, sát ngay cạnh Gò Đống Đa, là người đứng ra xây dựng đền Trung Liệt trên đỉnh gò Đống Đa, thờ ba vị tướng của triều Nguyễn hy sinh khi chống thực dân Pháp là Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, hy sinh trong trận đánh bảo vệ thành Hà Nội và Đoàn Thọ, tử trận ở Lạng Sơn.
Trong bối cảnh hầu hết sĩ phu đương thời đều coi khinh Hoàng Cao Khải dù ông có tài văn học, thái độ này bắt nguồn từ tác phong kẻ sĩ Nho học, vốn bất hợp tác với người Pháp, trong khi ông thì ngược lại, cộng tác rất đắc lực với người Pháp, thì việc Hoàng Cao Khải cho thờ thêm ở đây cả Trương Quốc Dụng, một đồng hương của ông ta, chết trong lần đi trấn dẹp cuộc nổi dậy của “giặc” Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên, biến nơi đây từ chỉ thờ có “Tam Trung” là Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Đoàn Thọ, sang công thức “Song trung, nhị liệt”, thành tên gọi “Trung Liệt”, làm cho sĩ phu Bắc Hà và nhân dân kịch liệt phản đối. Họ cho rằng thâm ý của Hoàng Cao Khải là muốn biến kiến trúc tín ngưỡng này thành nơi thờ phụng chính ông ta. Từ đó, ngôi đền Trung Liệt, xây trên đỉnh Gò Đống Đa, dần trở nên “hương tàn, khói lạnh”, và dần dần còn lại như ngày nay.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.