TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
GIỮ CHỦ QUYỀN TRONG VĂN CHƯƠNG
GIỮ CHỦ QUYỀN TRONG VĂN CHƯƠNG
TÔ HOÀNG
Tại cuộc hội thảo “Văn xuôi Việt Nam hiện đại” nằm trong khuôn khổ Hội nghị Quốc tế giới thiệu Văn học Việt Nam diễn ra tại Hà Nội vừa qua, nhiều nhà văn, nhà dịch thuật của các nước đánh giá cao giá trị văn chương Việt Nam. Đặc biệt là những tác phẩm viết về hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đại biểu của nhiều nước cũng cung cấp những thông tin khá lạc quan về một số lượng đáng kể những đầu sách văn chương nước ta đã được dịch ra tiếng nước họ. Tuy nhiên, đây đó cũng có những ý kiến thẳng thắn của bè bạn khiến chúng ta không thể làm ngơ…
Trong bài tham luận của mình, chuyên gia tiếng Việt người Trung Quốc, GS Chúc Ngưỡng Tu, cung cấp một thông tin: Văn chương Việt Nam dịch ra tiếng Hoa và xuất bản ở nước ông rất thưa thớt, ít ỏi, khó tìm được trên quầy sách. Ngược lại, khoảng 10 năm trở lại đây tại Việt Nam, văn chương Trung Quốc được dịch ra tiếng Việt rất nhiều, rất cập nhật và kịp thời - đến độ hầu như ở Bắc Kinh xuất hiện một tác giả nào mới, một tác phẩm nào mới, ở Hà Nội có ngay (!). GS Chúc Ngưỡng Tu hóm hỉnh giải thích nguyên nhân của sự “lệch pha” này theo cách nói của người Việt Nam là ở yếu tố “đầu tiên”, tức là do đồng tiền lợi lộc chi phối tất cả!
Nghe lời vị giáo sư Trung Quốc kia, chả lẽ trái tim của tôi, của bạn không thót nhói sao? Ai cũng biết trong cơ chế thị trường, không còn chuyện anh dịch 10 cuốn sách của tôi, thì tôi cũng dịch 10 cuốn sách của anh. Chất lượng hay và lạ của điều nhà văn viết ra sẽ trở thành thứ “đặc sản” hấp dẫn trước hết là người đọc sách, sau tới người làm sách. Sau nữa, đồng tiền nhuận bút dịch trả cao; sách dịch ra bán được với số ấn bản lớn khiến đồng vốn người làm sách bỏ ra nở nang, phổng phao sẽ là yếu tố kích thích rất quan trọng công việc trao đổi văn chương. Nhưng đó đâu phải là tất cả những mạch ngầm của việc trao đổi văn chương nói riêng, văn hóa nói chung.
Từ nhiều năm trước đây, báo chí nước ta chẳng đã báo động về một chiến dịch phim Hàn Quốc ồ ạt chiếm lĩnh màn ảnh lớn, màn ảnh nhỏ. Và sau phim là mỹ phẩm, thời trang Hàn Quốc bán rất chạy, trở thành thú ăn chơi “sành điệu” ở Việt Nam. Vài năm sau, màn ảnh lớn, màn ảnh nhỏ lại tràn ngập phim kiếm hiệp, phim dã sử Trung Hoa đến mức nhiều nhà giáo và các bậc làm cha làm mẹ xứ mình thảng thốt nhận ra, con cái họ thuộc sử Tàu và nhớ tên các danh tướng, anh hùng hảo hán Tàu hơn cả sử sách Việt lẫn các danh nhân, danh tướng họ Lý, họ Trần… Chương trình “Giờ vàng phim Việt” - một sáng kiến độc đáo của Đài Truyền hình TPHCM, tiếp tới cuộc thi “Bài hát Việt” do Đài Truyền hình Việt Nam khởi xướng đã có giá trị như những biện pháp hữu hiệu, kịp thời nhằm nắn chỉnh lại mọi lệch lạc… Bây giờ đến lượt truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết Trung Hoa đang tràn vào xứ ta...
Có người nói, cứ kệ nó… Hãy để đồng tiền lập lại trật tự. Có nên hy vọng như thế không? Ví dụ đã nhãn tiền: Nhiều “đối tác” khôn ngoan đã biết dùng văn hóa để dọn đường cho sự xâm nhập về thương mại, kinh tế. Thử hỏi, nếu có “đối tác” nào khác biết chịu thiệt thòi, thua lỗ trong việc xuất khẩu hàng hóa văn hóa để nhắm tới cái đích quảng bá, tuyên truyền cho sức mạnh kinh tế, quân sự và những mưu đồ tầm xa của họ thì sao đây?
Giao lưu không phải là việc mở toang mọi cánh cửa để cả gió lành lẫn gió độc thỏa sức ùa ập vào nhà. Tuân thủ những nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế thị trường không đồng nghĩa với việc biến mọi thành quả văn hóa thành hàng hóa, đồng lời lãi là thước đo duy nhất cho mọi giá trị văn học, nghệ thuật.
Chính ở phương diện này, yêu cầu định hướng thể hiện rõ tính thiết thực và tác dụng sâu xa, dài lâu của nó.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.