TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
NHẠC TÍNH TRONG THƠ THANH THẢO
NHẠC TÍNH TRONG THƠ THANH THẢO
ThS. NGUYỄN THANH TUẤN
Nhạc điệu trong thơ đã được các nhà Thơ Mới khai thác như là một phương tiện nghệ thuật trong quá trình sáng tạo nhưng không thể phủ nhận rằng mãi cho đến khi Chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực ra đời thì vai trò của nhạc điệu mới trở thành một yếu tố tuyệt đối. Mỗi từ trong thơ đều là một nốt nhạc tạo thành giai điệu đặc sắc làm mê hoặc lòng người. Verlaine xem âm nhạc là yếu tố trước tiên và đặc biệt quan trọng hơn mọi sự. Thơ ca không phải là thứ dùng để kể lể, miêu tả đơn thuần mà là những ám thị đầy phức cảm, muốn vậy thơ phải là “nhạc điệu ma quái”. Thứ “nhạc điệu ma quái” theo cách nói của Verlaine ấy có vai trò và sức mạnh diệu kỳ trong thơ. Valéry thì tỏ ra tỉnh táo hơn trong khi nói về tính nhạc: “Thơ là sự giao động giữa âm thanh và ý nghĩa”, điều này khẳng định rằng thơ phải là nhạc điệu của câu chữ, của tiết tấu và nhịp điệu dẫn đến có thể dùng thơ để hát lên. Nhạc điệu là yếu tố hàng đầu trong thơ chứ không phải cảm xúc.
Thơ mới đã cho người đọc nhiều khoái cảm thẩm mỹ từ nhạc điệu nghê thường của những câu thơ Bích Khê, Huy Cận, Xuân Diệu… Sự cách tân thơ thực sự bắt đầu từ Bích Khê, thi sĩ chủ động đến với thơ bình thanh và tạo cho mình một phong cách thơ với những khám phá độc đáo về mặt nhạc tính. “Buồn lưu cây đào xin hơi xuân/ Buồn sang cây tùng thăm đông quân/ Ô, hay buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông (Tỳ bà). Tất cả mờ nhòe rồi dần tan biến vào âm nhạc dịu nhẹ, trầm buồn của toàn những thanh bằng.
Trong hành trình sáng tạo của mình Thanh Thảo cũng đi sâu khai thác tính nhạc. Theo Thanh Thảo, thơ muốn tồn tại được phải có khả năng tạo nhạc vì nó như là linh hồn của bài thơ vậy. Tuy nhiên khi nghiên cứu tính nhạc trong thơ ông, ta ít thấy những bản hùng ca hùng hồn vang dội mà là những chuỗi âm thanh êm dịu, sâu lắng như tiếng lòng của thi sĩ có khả năng biểu cảm mạnh mẽ và tinh tế.
“Vội vã
mặt hướng về quên lãng
hướng về tiếng thở dài
hướng về chuyển động
hướng về vô vọng
Vội vã
không một lời xin lỗi
người đàn ông bước qua những ngọn cây
để lại phía sau người đàn bà làn khói mỏng
Vội vã
Những con tàu tìm bến
Những ngôi sao tìm chỗ được nhìn thấy
Chen chúc trong vũng nước
Một vòm trời đột nhiên
Vội vã
Những câu thơ tìm ngọn lửa”
(Vội vã)
Thật khó để phân biệt rạch ròi những câu thơ lây nhiễm nhạc điệu hay nhạc điệu tạo ra thơ. Không ồn ả nhưng nhịp nhanh, tiết tấu đều đặn như nhịp vỗ tay trong mỗi khổ thơ. Điều này rất gần gũi với âm nhạc cổ truyền của người Việt nên nó có một sức mạnh lay động tâm hồn mạnh mẽ mà điểm xuất phát của nó là từ sâu trong đời sống văn hóa làng xã với những sinh hoạt văn hóa cộng đồng của cư dân trồng lúa nước. “Người đàn ông bước qua những ngọn cây”, bước chân của người đàn ông cũng là bước chuyển của nhạc điệu. Các từ chuyển đổi “Vội vã… Vội vã… Vội vã…” cùng một lúc đảm nhận nhiều vai trò như: ngắt khổ thơ, chuyển đổi mạch cảm xúc, mở rộng hướng khám phá của nội dung và đặc biệt hơn cả là nốt chuyển đổi của nhạc điệu. Mỗi khổ thơ có một chút chuyển biến về tiết tấu và nhịp làm cho bản nhạc ấy trở nên phong phú, kỳ ảo và quyến rũ hơn. Nếu xét trên phương diện tổng thể của cả tổ hợp âm thanh toàn bài thì nó lại cơ bản đều đặn, nhịp nhàng như bước chân lộ hành. Hiệu ứng này cũng được tạo ra từ hệ thống từ đóng vai trò tạo khuôn trong cả bản nhạc ấy.
Bao đời nay vẫn thế, bản chất của thơ là “thi trung hữu họa” và “thi trung hữu nhạc”. Nhạc và họa là yếu tính của thơ, có nhạc có họa thì nên thơ, không nhạc không họa thơ không còn là thơ nữa. Phần tinh túy nhất của cảm xúc trong thơ bao giờ cũng được điệu thức hóa thành nhạc. Nó vấn vít, ngân nga cả bên trong lẫn bên ngoài từng tiếng thơ và trở thành linh hồn, thành sức mạnh phi thường của ngôn ngữ thơ. Nếu các trường caNhững người đi tới biển, Bùng nổ của mùa xuân, Đêm trên cát, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc... được Thanh Thảo kết cấu theo kiểu của những bản giao hưởng và xônát khiến cho các thi phẩm nàycó quy mô và âm hưởng củanhững bản trường ca. Ngược lại, đối với các bài thơ ngắn ông lại kết cấu chúng theo cấu trúc của những ca khúc ngắn có kết cấu và nhịp điệu mới mẻ, hiện đại.
Với Đàn ghi-ta của Lorca, âm điệu chủ đạo đồng thời cũng là nhạc điệu làm nền cho cả bài là âm thanh đặc trưng của tiếng Tây ban cầm “li - lali - lali - la”. Đây là kết quả, là bằng chứng của sự giao thoa giữa thơ và nhạc, giữa hình ảnh và âm thanh. Trên cơ sở của cái nền ấy, các hình ảnh thể hiện bản ngã và sự bi thảm nhất của cuộc đời thi sĩ, nhạc sĩ Lorca được thể hiện. Ngoài ra “Li-la” còn là tên của loài hoa có màu tím ngắt - hoa Tử Đinh Hương. Những chữ “li - lali - lali - la” ở đầu và cuối bài thơ như những vệt màu tím vô tận của những luống hoa này. Như thế, trong thơ không những “hữu nhạc” mà còn “hữu họa”. Bản nhạc trầm hùng ấy vẫn đều đặn vút lên những âm thanh nhói buốt tâm can người đọc, với: “đỏ gắt, chếnh choáng, mỏi mòn, kinh hoàng, bãi bắn, vỡ tan”… vừa là điểm nhấn trong âm nhạc vừa là điểm nhấn trong chuỗi hình tượng thơ.
Thanh Thảo triển khai mạch thơ giống như mạch của một khúc ca với kết cấu gồm bốn phần trọn vẹn như một sản phẩm âm nhạc với những ý đồ nghệ thuật sâu sắc. Điều này khiến cho thi phẩm có một đời sống kép.
“Những tiếng đàn bọt nước
Tây-ban-nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn (Đàn ghi-ta của Lorca)
Đây chính là phần giới thiệu khái quát bản chất của nhân vật trữ tình trong thơ. Đồng thời cũng là khúc dạo đầu của bản nhạc với những nốt trầm êm dịu, tiết tấu chậm và vừa dẫn bước chân người đọc dần bước vào thế giới âm thanh “li-la li-la li-la”…
“Tây-ban-nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”
(Đàn ghi-ta của Lorca)
Đoạn thơ này hàm chứa sự kiện quan trọng nhất, “Lorca bị điệu về bãi bắn”. Đây là sự kiện chủ đạo là nguồn thi hứng cho sông thơ tiếp tục chảy. Lênh đênh trên dòng sông ấy là biết bao hình ảnh nhuốm màu tượng trưng, siêu thực. Nó cũng là đoạn phát triển của bản nhạc với nhiều nốt thăng ở cuối mỗi câu. Đoạn phát triển này là tiền đề mà Thanh Thảo đã khéo léo chuẩn bị cho bước đột phá âm thanh ở đoạn cao trào.
“tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”
(Đàn ghi-ta của Lorca)
Đoạn thơ như một thước phim tài liệu phản ánh một điều không thể tin nổi nhưng nó lại là hiện thực, một hiện thực phũ phàng đã tràn ngập khắp không gian. Đó là cái chết của Lorca, cái chết của nghệ thuật của thơ và âm nhạc cái chết của những gì bất tử. Đây chính là đoạn cao trào của bản nhạc với dồn dập biết bao âm thanh xô đẩy nhau, gầm thét như dòng thác dữ.
“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di -gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li - lali - lali - la”...
(Đàn ghi-ta của Lorca)
Người nghệ sĩ xứ sở của những trận đấu bò tót và điệu flamenco đã lìa bỏ nhân thế “trên chiếc ghi-ta màu bạc”, chàng tự tìm đến với trạng thái thái thanh thản, nhẹ nhàng bằng cách tự giải thoát “ném lá bùa cô gái di-gan”, “ném trái tim mình/ vào lặng im bất chợt”. Đoạn kết của bản nhạc từ từ đổ xuống bằng những nốt trầm êm ái và chậm “li - lali - lali - la”... dần tan ra, tan ra như hơi thở…
Nhạc điệu trong thơ Thanh Thảo còn là sự luyến láy, là phương thức điệp, cách ngắt nhịp…tạo ra những tiếng vọng cộng hưởng rồi ngân vang có khả năng tạo sinh và truyền sức mạnh biểu cảm cho ngôn ngữ thơ.
“tuổi hai mươi bom rơi
tuổi ba mươi ghềnh thác
tuổi bốn mươi day dứt
tuổi năm mươi trầm ngâm”
(Trưa Vinh Sơn)
Sự lặp lại của nhịp thơ và tiết điệu làm cho bản nhạc trở nên êm dịu như bầu trời thu trong. Nó cứ ngân vang, ngân vang mãi để chắp cánh tạo sinh cho ngôn ngữ. Các từ “tuổi” đứng ở đầu câu có vai trò là “khóa son” cho khung nhạc. Liền ngay sau nó là các số từ “hai mươi”, “ba mươi”, “bốn mươi”, “năm mươi” thể hiện nhịp hải hà, là bước đi đều đặn và lạnh lùng của thời gian. Khi thời gian đi qua có những thứ sẽ bị nó xóa mờ nhưng có những giá trị mà bụi thời gian càng dày nó sẽ càng trường tồn mãi mãi. Ngay sau các số từ ấy lại là các danh từ đã được tính từ hóa: “bom”, “ghềnh thác” và các tính từ: “day dứt”, “trầm ngâm” thể hiện sự biến đổi tinh vi trong nhận thức và đặc biệt là quá trình chín chắn dần trong tâm hồn con người. Điều này tạo ra phản ứng ngược chiều mà bản chất là tác động qua lại. Nhạc điệu giúp ngôn ngữ tạo sinh đến một mức độ cần và đủ, nó lại có khả năng nâng đỡ nhạc điệu đến những giai điệu sâu lắng và huyền bí. Nếu lúc đầu ta cảm nhận nhạc điệu từ bên ngoài bằng những giác quan thông thường thì lúc này nhạc điệu thơ chỉ có thể được tiếp nhận bằng tâm hồn. Những ai càng có nhiều trải nghiệm thời gian và tâm hồn nhạy cảm thì càng cảm nhận sâu sắc hơn, tinh tế hơn về nhạc điệu thơ Thanh Thảo.
Sự lặp lại, luyến láy trong thơ Thanh Thảo luôn hướng đến sự phát triển. Nó không chỉ là nỗi nhớ, sự khắc khoải đợi chờ mà còn là tiếng vọng lan tỏa, lan tỏa vô hạn vô hồi trong không gian. Nhạc điệu thơ không chỉ được ông tạo ra từ những giây phút có sự kiểm soát tuyệt đối của tâm thức mà nó còn được tạo ra từ những giây phút tiềm thức, tự động tâm linh. Khi được hỏi về những dụng ý nghệ thuật của việc tạo ra giai điệu: “li - lali - lali - la” trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lorca”, Thanh Thảo tâm sự rất thật: “Thú thật, khi viết, tôi cũng không có ý đồ nghệ thuật gì, bởi những từ tượng thanh này chợt đến, có lẽ từ vô thức của tôi và tôi viết ra như thế thôi” (Thanh Thảo, Bài phỏng vấn đăng trên tạp chí Văn học tuổi trẻ, số tháng 11/2009, trang 30). Thế có nghĩa là thơ và nhạc, hai yếu tố luôn hòa quện chặt chẽ với nhau, khi làm thơ nhạc sẽ đến, khi viết nhạc thơ sẽ vươn cánh bay theo. Trong sâu thẳm tâm hồn Thanh Thảo, âm nhạc đã tràn đầy và cất cánh vang ngân ngay cả khi Thanh Thảo không cố tình khảm nhạc vào thơ.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.