TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA THANH THẢO
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA THANH THẢO
THÁI NGUYỄN HỒNG SƯƠNG
Từ lúc mới xuất hiện trên thi đàn đến nay, đời thơ Thanh Thảo đã trải qua
không ít những biến cố thăng trầm. Quá trình sáng tạo đối với ông là một hành
trình không thôi kiếm tìm những ngả đường mới cho thi ca. Đồng hành với ông,
không ít những bài báo, bài nghiên cứu, phê bình về thơ ông đã ra đời như những
hồi đáp từ quá trình tiếp nhận. Đó hầu hết đều là những bài viết giá trị và rất đáng
chú ý. Những gợi mở từ đó đã giúp cho người viết đề tài có một nền tảng hỗ trợ
vững chắc khi tiếp cận vấn đề.
Thật ra, Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo là một mảng đề tài còn khá
mới, từ trước đến nay vốn chưa có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề này. Tuy nhiên, cũng đã có một số bài viết với nhiều góc nhìn khác nhau, cách
tiếp cận khác nhau chạm đến được những độc đáo trong thế giới thơ Thanh Thảo.
Những bài nghiên cứu đó tuy chỉ mới khai thác những góc nhìn hẹp về một khía
cạnh nào đó trong thơ Thanh Thảo, nhưng cũng đã gợi ý rất nhiều cho quá trình
tiếp nhận và nghiên cứu.
Tiêu biểu cho cách tiếp cận từ góc độ đề tài, bài viết Dấu chân những
người lính trẻ và thơ Thanh Thảo của Lại Nguyên Ân đã chú ý tìm hiểu chân dung
người lính được phác họa trong thơ Thanh Thảo như “một quan tâm xuyên suốt,
một ý tứ chủ đạo”. Trong đó hình ảnh người lính nổi bật nhất ở những điểm: vẻ
đẹp bình thường và vô danh, chất trẻ, sự tự ý thức về mối quan hệ giữa cá nhân
với cộng đồng và cá nhân với lịch sử. Lại Nguyên Ân cho rằng thơ Thanh Thảo là
sự đan xen nhuần nhị giữa cái cụ thể và cái khái quát, là cảm quan chân thật về
thực tại được trình bày bằng chất giọng trầm, dồn nén. Với phạm vi khảo sát chủ
yếu qua tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ và trường ca Những người đi tới biển, bài
viết của Lại Nguyên Ân liên tục soi chiếu hình tượng người lính trong thơ Thanh
Thảo trong tương quan với dòng cảm hứng chung đương thời. Góc nhìn này đã
đóng góp một cách nhận chân giá trị và chất riêng của thơ Thanh Thảo trong số rất
nhiều những tác phẩm cùng viết về mảng đề tài này.
Cùng cách tiếp cận như Lại Nguyên Ân nhưng lại có cách lý giải khác,
Boey Kim Cheng trong bài viết Thơ Thanh Thảo chống lại ngày quên lãng đã
khám phá và phân tích xuyên suốt một “tứ” quan trọng trong thơ Thanh Thảo: đó
là nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh ám
ảnh quá khứ, sự tổn thương của con người hậu chiến và khát khao phục dựng một
ký ức vô tư, hồn nhiên nằm ngoài những hệ lụy của chiến tranh. Boey Kim Cheng
đã có những nhận định rất sâu sắc về vấn đề: “Ký ức, việc thực hiện lời hứa với
quá khứ đang trở nên đặc biệt khẩn thiết tại nước Việt Nam mới, nơi sự phát triển
nóng đang làm rạn nứt đức tin mà những cựu chiến binh như Thanh Thảo đã vì nó
mà chiến đấu. Thơ ông là bằng chứng, cung cấp bằng chứng cho nỗi đau của
những người không thể lên tiếng thể hiện nỗi đau của họ. Đó còn là thi ca về sự
tồn tại, thứ thi ca có thể giành ý thức về cái đẹp trong những trải nghiêm hoang sơ
và khủng khiếp nhất.” Bài viết mở ra những góc nhìn tinh tế, đưa ra những kiến
giải thuyết phục cho mảng thơ viết về quá khứ của Thanh Thảo, nhất là nỗ lực tái
tạo ký ức, hàn gắn mất mát của nhà thơ. Một đoạn Boey Kim Cheng viết: “Bằng
việc đặt cá nhân vào trong lịch sử và lịch sử vào trong cá nhân, và đưa quá khứ, dù
khó khăn và khủng khiếp đến đâu chăng nữa, vào mối quan hệ bao quát nào đó với
hiện tại, nhà thơ đã hoàn tất một viễn cảnh đem lại khả năng phục hồi và hàn gắn.”
Nhìn từ khía cạnh biểu tượng trong thơ Thanh Thảo, Chu Văn Sơn trong
bài Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân đã tập trung nghiên cứu cặp biểu tượng
cốt lõi: lửa và nước. Ông cho rằng chính cặp đối cực này đã tạo nên vẻ đẹp của thơ
Thanh Thảo: “Thô sơ mà hực sáng chính là cái đẹp Thanh Thảo. Nó sẽ âm thầm
dẫn dắt anh tìm đến với những vẻ đẹp sáng tiềm ẩn ngay trong những gì thô sơ,
giản phác, bình dị, mộc mạc.” Cùng nghiên cứu về biểu tượng, Mai Bá Ấn cũng
phần nào có sự đồng tình với Chu Văn Sơn khi cho rằng thơ Thanh Thảo có một
sự kết hợp đến mức nhuần nhuyễn giữa hai đối lập: cỏ xanh và lửa đỏ. Toàn bài
Cỏ xanh và lửa đỏ - một đối lập logic của thơ Thanh Thảo, Mai Bá Ấn đã tập
trung khai thác ý nghĩa của hai hình tượng đặc biệt này. “Cỏ đã được Thanh Thảo
chú tâm khai thác để nhằm qua những hình ảnh đơn sơ, bình thường, nâng lên
thành những biểu tượng thơ đầy nghệ thuật nhằm bộc lộ những suy ngẫm tầng sâu
về triết lý cuộc sống […]Lửa đỏ trong thơ Thanh Thảo không chỉ là lửa thực hay
ngọn lửa tinh thần ta thường gặp mà anh còn sáng tạo ra những biểu tượng lửa rất
lạ như “nước rực cháy”, “trái tim dòng sông bốc cháy”, rồi “mặt trời như trái dừa
lửa kỳ lạ/ treo trên đầu tất cả chúng ta”...”
Mặt khác, khi nghiên cứu về tư tưởng thơ Thanh Thảo, Chu Văn Sơn trong
bài Thanh Thảo – nghĩa khí và cách tân cho rằng “chất người chính là nỗi trăn trở,
niềm day dứt cả đời Thanh Thảo”, hơn nữa đó phải là chất người nghĩa khí, vì
“viết về nghĩa khí và viết bằng nghĩa khí là một mãnh lực của ngòi bút Thanh
Thảo”. Quan trọng hơn, theo Chu Văn Sơn, một trong những đóng góp lớn nhất
của Thanh Thảo trong hành trình cách tân thơ là ở bình diện cấu trúc: “Rubic – đó
là cấu trúc của thơ”. Sáng tạo theo cấu trúc rubic chính là “hành vi mà sự cố ý ẩn
sâu trong tiềm thức, đẩy những màu sắc ngẫu nhiên nổi lên như rubic xoay quanh
cái trục bí mật của nó”[1]. Qua chuyên luận này, tác giả Chu Văn Sơn đã khám phá
thế giới thơ Thanh Thảo một cách trực diện, lý giải những luận điểm của mình dựa
trên chính văn bản thơ với những trích dẫn cụ thể, xác đáng.
Nghiên cứu về không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong thơ
Thanh Thảo, nổi bật nhất có thể kể đến là Không gian nghệ thuật, thời gian nghệ
thuật trong trường ca Thanh Thảo của Mai Bá Ấn. Trong đó, ông đã gọi tên ba
cặp không gian - thời gian xuất hiện thường xuyên trong thế giới thơ Thanh Thảo:
không gian mở rộng - thời gian cô đặc, không gian chuyển hóa – thời gian đa
tuyến, không gian hồi tưởng - thời gian quá khứ. Trong đó ông đặc biệt nhấn
mạnh: “không gian mở rộng và thời gian cô đặc là quan niệm nghệ thuật quán
xuyến trong toàn bộ Trường ca Thanh Thảo. Trong đó, ta có thể dễ dàng nhận ra,
trong thời gian cô đặc ấy, không gian nghệ thuật mở rộng khá phổ biến và có tần
suất xuất hiện cao nhất trong Trường ca Thanh Thảo chính là không gian trời xanh
- nơi phát ra những tia chớp đỏ, không gian rừng núi - nơi phát ra những đám
cháy, không gian đồng bằng với những dấu chân, lối mòn, con đường - nơi tồn tại
vĩnh cửu của cỏ xanh, và không gian biển - nơi của những ngọn sóng, của gió và
cát. Tất cả đó đã làm nên một phong cách Thanh Thảo khá rõ nét qua Trường ca”.
Đây là những đúc kết khá công phu và sâu sắc của Mai Bá Ấn về những phương
diện nghệ thuật đặc sắc trong thơ Thanh Thảo.
Thanh Thảo là một nhà thơ có bề dày sáng tác và hiện vẫn tiếp tục dấn thân
trên con đường thơ ca. Bản thân ông hoàn toàn không xa lạ với độc giả hiện đại.
Song song với điều đó, chúng ta cần một sự phân tích, nghiên cứu tương xứng với
sự nghiệp của ông cũng như những đóng góp không thể phủ nhận của ông trong
quá trình cách tân thơ Việt Nam hiện đại.
1.1. Quan niệm về thơ
Thanh Thảo đã không ít lần phát biểu quan niệm của mình về thơ trong các
bài trả lời phỏng vấn, các bài tản văn, tiểu luận - phê bình…Nỗ lực định nghĩa thơ,
gọi tên thơ của Thanh Thảo cũng là khát khao chính đáng của bất kỳ người cầm
bút nào. Biết bao thế hệ thi sĩ tự cổ chí kim đã không ngừng dằn vặt suốt cuộc đời
mình để đi tìm chân dung đích thực của nàng thơ, mà muôn đời đó vẫn là một bí
mật lớn không dễ gì hóa giải. Với Thanh Thảo, nói về thơ cũng là một cách để giãi
bày nguồn năng lượng sáng tạo chưa kịp chuyển hóa thành thơ, là con đường để
người nghệ sĩ tỏ bày những suy tư của mình lên trang giấy một cách trực diện
nhất.
Theo Thanh Thảo, thơ là một thế giới bí ẩn. Đó là “tiếng nói của tâm linh,
tiếng nói của sự chiêm nghiệm nhiều khi là cả đời người, của nhiều đời người.
[…] là “kinh thánh của tâm hồn”, là thứ không thể mua và không thể bán.” Thơ là
“tiếng gọi từ một thiên năng”, do đó không phải lúc nào cũng nằm trong tầm nắm
bắt của con người: “Thơ vẫn là cái gì mờ mờ ảo ảo, vẫn là cái gì ta vừa bắt được
đó lại vừa tuột đâu mất. Thơ vẫn là hình bóng, đôi khi là bóng của bóng nữa.”
Trong ánh nhìn của Thanh Thảo, thơ có vẻ nghiêng về phía của vô thức, nó xuất
phát từ nguồn nội lực sâu thẳm dồn nén tận sâu bên trong con người: “Thơ là tiếng
thét trong im lặng, là những dồn nén đến tận cùng dưới một vẻ bình thản như đất.”
Đến với thơ ca, con người đang làm một cuộc hành trình đi tìm mình, đi khám phá
những bí mật vô tận ẩn náu trong những vùng tối tăm của tâm hồn mình, bởi thơ
“buộc tiềm thức, vô thức của ta phải làm việc, buộc ta phải ngụp lặn xuống lòng
nước tối, ngụp lặn vào chính những giấc mơ của ta.”
Chính vì vậy, theo Thanh Thảo, thơ là tiếng nói bí mật dành cho từng cá
nhân, là “thánh đường dành cho một người, cho từng người một”. Ông cho rằng
“Thơ có thể cùng một lúc kích động được nhiều người, nhưng thơ lại chỉ dành cho
từng con người riêng biệt, từng con người muốn qua cảm nhận thơ để cảm nhận
chính con người mình, và qua chính con người mình mà cảm nhận thế giới.” Nói
cách khác, thơ là con đường tương thông đi từ thế giới tinh thần của mỗi cá thể ra
thế giới bao la của vũ trụ. Mỗi người thông qua thơ để khám phá chính mình, hiểu
và sống trọn vẹn với mình, với đời. Thơ thì thầm với từng phận người, đồng cảm
với từng cá thể. Trong lãnh địa của thơ ca, mỗi cá nhân là một thế giới; mỗi con
người mất đi là không sao bù đắp, không sao cứu chuộc. Bởi, “Thơ đọc giữa
quảng trường thì cũng như thơ đọc trong xà-lim, cái chính là thơ chứ không phải
nơi đọc thơ. Cái chính là từng người một tiếp nhận thơ, chứ không phải vạn người
như một tiếp nhận thơ.”
Thơ gắn liền với số phận cá nhân của con người. Dù viết về vấn đề gì, dù
cách tân đến đâu, thơ muôn đời vẫn không đi ra khỏi tiếng nói của số phận. Thơ
trước hết là những ký thác thầm kín của người nghệ sĩ, sau nữa là sự cộng hưởng
của tâm hồn thi nhân với những thân phận khác trong cuộc đời. “…thơ từ xưa tới
giờ luôn là kinh cầu nguyện cho tâm hồn con người, nơi con người có thể sám hối,
có thể khắc khoải, có thể khao khát và công khai bày tỏ những khát khao thầm kín
nhất, nơi bất cứ một ánh nhìn nào cũng đều được “trong trẻo hóa”, đều thăng hoa,
hướng thượng”. Theo đó, thơ không chỉ giải tỏa mà còn phản ánh, không chỉ phản
ánh mà còn thanh lọc. Thơ vừa mang hơi hướng độc thoại, vừa không ngừng đối
thoại, nhưng trên hết, “Thơ không thể thiếu những số phận cá nhân, nhà thơ không
thể “tự quên mình” để chỉ nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, dù giọng ca có bi
hùng đến mấy thì người đọc vẫn thấy thiếu một cái gì có thể động đến những
khoảng nhỏ rất riêng của tâm hồn mình. Sự đồng điệu không chỉ đến từ những bài
ca tập thể, nó là của giai đoạn ngây thơ hồn nhiên ban đầu.” Thơ phản chiếu số
phận, nhưng tuyệt nhiên không phải là sự sao chép. Vì “ đời là đời mà thơ là thơ.
Bởi hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng mỗi khi đắm chìm vào những câu thơ là mình
đang sống một cuộc đời khác, mơ những giấc mơ khác, thậm chí chu du vào một
thế giới khác. Thơ có khả năng tạo ra những ảo giác - hiện thực như thế, trước hết
là cho nhà thơ, sau đó có thể lan truyền tới người đọc thơ.”
Mặt khác, thơ trong quan niệm của Thanh Thảo còn được nhấn mạnh ở khả
năng thức tỉnh. Trước hết đó là sự thức tỉnh của bản thân người cầm bút trước một
hình ảnh nào đó trong đời sống gọi dậy một tứ thơ đã ấp ủ. Sự thức tỉnh ấy không
phải là một tình trạng, mà là một trạng thái tinh thần đột hiện có nguồn gốc sâu xa
từ quá trình chiêm nghiệm lâu dài của nhà thơ về đời sống. Nói như Thanh Thảo:
“Con đường tới với thơ không phải là con đường phân tích, mà là con đường cảm
nhận, con đường của sự đột nhiên, của một thức tỉnh từ một hình ảnh ít gặp, hoặc
chưa gặp nào đó”. Cái đột nhiên mà Thanh Thảo đề cập ở đây rất gần với sự bừng
ngộ của thiền gia. Kinh nghiệm tâm linh mà con người tích lũy từ hành trình tu
chứng lâu dài đến khi chín muồi, chỉ cần bắt gặp một hình tượng ngẫu nhiên nào
đó cũng đều có thể khơi dẫn đến cảnh giới giác ngộ. Tương tự, những suy tư chất
chứa trong tâm tưởng nhà thơ bắt gặp một hình ảnh nào đưa đẩy, gợi nhắc, sẽ
bùng phát thành cảm hứng sáng tạo. Điều này Chu Quang Tiềm từng gọi là “sự
phát sinh của linh cảm”: “Linh cảm phát sinh do sự uẩn nhưỡng của tiềm thức nên
nó xuất hiện bất thình lình, nhưng không phải là không có sự chuẩn bị […] Gọi là
linh cảm, chính là tích lũy ẩn dấu cả một kho thưốc nổ để gặp có mồi lửa là nổ
bùng” [1]. Như vậy, cái nhìn thức tỉnh theo quan niệm của Thanh Thảo thực ra là
sự bừng tỉnh của tiềm thức, là cái đột khởi của tư tưởng đã được thai nghén lâu
ngày.
Bên cạnh đó, thức tỉnh không chỉ là đặc trưng của hành trình sáng tạo mà
còn là chức năng của thơ ca. “Thơ có ích không phải vì thơ giáo huấn ai, giáo dục
ai, cải tạo ai, mà vì thơ thức tỉnh con người trước cái “trăm năm”, thơ đặt con
người đối diện với nghìn năm, thơ cho con người một thoáng nhìn lại chính mình
một cách bình thản”. “Thơ luôn ở tầng ngầm, tầng sâu của dòng chảy cuộc sống.
Nó chỉ chợt đến với từng người, rồi chợt đi. Nhưng mỗi khoảnh khắc tiếp xúc ấy,
thơ có thể khiến con người bừng tỉnh, có thể khiến con người thay đổi […] Và cái
đáng quý nhất ở thơ, là nó có khả năng khiến người đọc thơ, trong một chớp mắt,
tự tách ra khỏi bản thân mình để nhìn lại chính mình, như mặt trăng nhìn trái đất
bằng một ánh nhìn dịu dàng”.
Nhưng thơ không phải chỉ là sự tỉnh táo. Thanh Thảo từng viết: “Có nhà
thơ than rằng đời bây giờ tỉnh quá. Tôi, ngược lại, tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh
bơ, tỉnh như sáo! Vì tôi biết, cái tỉnh đó chỉ là phía nhìn thấy được của đam mê”.
Và cũng chính ông, trong một bài viết khác: “Nhìn tỉnh quá chưa chắc đã có thơ
hay. Và không nhìn thấy gì cả cũng chưa hẳn thơ vụt sáng. Thơ vẫn là cái gì mờ
mờ ảo ảo, vẫn là cái gì ta vừa bắt được đó lại vừa tuột đâu mất. Thơ vẫn là hình
bóng, đôi khi là bóng của bóng nữa”. Nhìn chung, “thơ là lúc đang rơi”[2]. Thơ hay
thường tồn tại ở ranh giới giữa các khái niệm: khả giải và bất khả giải, thân quen
và mới lạ, ánh sáng và bóng tối, mơ màng và thức tỉnh. “Thơ là chữ nghĩa mà
cũng không là chữ nghĩa, là ý thức mà không phải là ý thức, là vô thức mà không
hẳn là vô thức”. “Thơ cần cả triết học và phi-triết-học, cần cả những khám phá của
trí tuệ lẫn những trạng thái vô lý, vô nghĩa của tâm hồn”. Cái nhìn của Thanh Thảo
đưa thơ vào thế giới của sự lưỡng lự đầy minh triết, một thế giới im lặng sâu thẳm
ẩn chứa những giá trị đa chiều.
Với Thanh Thảo, thơ vừa là nơi gửi gắm niềm vui hứng sáng tạo, đồng thời
cũng là chỗ dựa tinh thần cho con người, mà trước hết là cho chính bản thân người
làm thơ: “…thơ lại hay được “đẻ” ra trong những thời điểm khó khăn như vậy, bởi
nó vừa là ngôn chí vừa là cánh cửa giải thoát. Những khi đó, người bạn thân thiết
nhất của nhà thơ chính là…thơ của mình”. “Nơi nào thiệt thòi nhất, lặng thầm
nhất, đắng cay nhất, nơi ấy có Thơ như bạn đường, như đồng đội, như những hạt
dẻ vô tư và vô danh”. Một câu thơ hay, một bài thơ hay là cứu cánh của nghệ
thuật, một phần vì nó thỏa mãn nhu cầu bức bách của tình cảm và năng lực sáng
tạo, mặt khác vì nó tạo nên sức mạnh tinh thần cho con người, đưa con người ra
khỏi những nhàm tẻ, tầm thường trong đời sống.
trong phút lầm lũi vô tận
những câu thơ chúng ta
rách tả tơi đói kém xanh xao
gượng dậy sau bao lần mệt lả
(nhớ H.Đ và V.H.Đ)
Một đặc điểm quan trọng nữa của thơ ca theo Thanh Thảo là tính độc đáo.
Mỗi thế giới nghệ thuật thơ phải là một thế giới riêng biệt, mới mẻ, sống động.
“Thơ chẳng ai giống ai, chẳng ai mong giống ai, và không có lối đi nào chung cho
cả hai nhà thơ cả. Đó là thách thức, và cũng là cái làm nên sức quyến rũ của Thơ”.
Phẩm chất ấy góp phần quan trọng làm nên sức sống bền bỉ của thơ ca vượt qua
những giới hạn của đời người; ngược lại, nếu thiếu nó, thơ sẽ không thể nào tồn
tại. Đó là cái khắc nghiệt mà nhà thơ phải đối diện trong hành trình sáng tạo của
mình: “…trong thơ, yêu cầu đó là thường xuyên: phải sống lại qua mỗi bài thơ,
cặp mắt mình phải được tái sinh liên tục. Cái yêu cầu gần như không tưởng!
Nhưng thơ sẽ chết nếu không thực hiện được yêu cầu ấy”. 1.2. Quan niệm về nhà thơ
Lev Tolestoi từng có một câu nói: “Thân phận nhà thơ cao hơn thân phận
của chính bản thân anh ta”. Bên cạnh sống cuộc đời riêng của mình với tư cách là
một con người bình thường, nhà thơ còn đa mang số phận của nghiệp cầm bút.
Anh ta phải lấy chính đời mình, chính những nghịch cảnh, những buồn đau của
mình làm đối tượng trước tiên để suy nghiệm, mà mục đích cuối cùng không gì
khác là sáng tạo cái đẹp và kháng cự lại sự suy tàn. Theo Thanh Thảo: “Với người
nghệ sĩ, nhiều khi những nghịch cảnh lại là những đặc ân cho sự sáng tạo, những
đặc ân của số mệnh mà dẫu muốn tránh, cũng không cách gì tránh khỏi”. Nhà thơ,
nói đến cùng, luôn luôn và trước hết chỉ hướng sự quan tâm đến bản thân, thông
qua nỗi đau của bản thân để nói về nỗi đau của nhân loại, bởi hơn ai hết, nhà thơ
hiểu rằng: “phàm làm thơ dù viết về ai, về cái gì cuối cùng cũng nhằm bộc lộ
mình”, và “dù thi sĩ một phút thôi cũng không giấu nổi mình”. Nhà thơ đi tìm thi
hứng ở chính tâm hồn mình với tất cả những biến động sâu thẳm của nó: “Nhà thơ
là người đánh cá thả lưới vào chính mình, vào cái khoảng biển đen sâu hút trong
mình, mong được vài ba con cá, hay một nhánh san hô, một ít rong rêu nào đó.
Nghe được những cơn chấn động, dù nhỏ, người làm thơ sở hữu được một tiếng
nói. Biết chờ nó, lắng nghe nó, là anh đã có thơ. Chẳng có “linh hồn văn hóa, thân
xác thơ ca” nào quái cả, chỉ có một con người cô đơn đang lắng nghe mình, sau
khi đã “mở cửa” cho tất cả thế giới vào mình”.
Do đó, đối với thi sĩ, thơ là chốn giãi bày nhưng cũng là một hành trình cô
đơn. Sáng tác thơ tự trong nó hàm ẩn không chỉ là sự rung cảm mà còn là nổi loạn,
là khiêu khích và tự khiêu khích. Nói cách khác, khi cầm bút, nhà thơ đang tự cứu
mình cũng là đang tự làm tổn thương mình. Thanh Thảo từng nói về vấn đề này
như sau: “Thơ đi giữa can trường và hoảng hốt, đi giữa cái liều và nỗi sợ…Thơ là
con dao găm “tôi tự ném vào khoảng trống” (Văn Cao), nhưng người bị thương lại
chính là tôi”. Quả thực, trang giấy trắng đối với người nghệ sĩ vừa là không gian
thăng hoa vừa là “pháp trường”. Nói như Marcel Reich Ranicki: “Thơ là hình thức
nhiều rủi ro nhất”[3]. Đến với thơ, người nghệ sĩ phải chấp nhận dấn thân vào một
cuộc chơi đầy hứng thú nhưng cũng đầy thách thức: “…một nghệ sĩ đích thực là
người thường phải “đi trên dây” trong những tác phẩm của mình. Sự chênh vênh,
bập bềnh của ngôn ngữ được thể hiện trong tác phẩm lại cùng là một thước đo để
người ta đánh giá tài năng của một nghệ sĩ ngôn từ”. Nhà thơ lúc nào cũng đi trên
ranh giới giữa sự sống và cái chết, giữa cái đẹp và sự tầm thường, giữa nỗi đau
tinh thần và niềm vui hứng sáng tạo:
có bao nhiêu con đường dẫn về mình triết
anh đã chọn con đường nguy hiểm nhất
dang tay đi giữa đỉnh cao và vực sâu
(Người mãi võ Sơn Đông)
Nhưng chính ở trạng thái chênh vênh đó mới là thời điểm những áng thơ
hay ra đời: “Không phải trên đỉnh núi hay đáy vực làm nên thơ hay, mà chính là
lúc đang rơi, lúc lơ lửng giữa đỉnh và vực là lúc mà nhà thơ có được những thi
phẩm xuất thần”.
Theo Thanh Thảo, thi nhân chỉ có thể sáng tạo trong sự xuất thần, tức là lúc
niềm phấn khích thi ca trở nên bức bách, “đưa người làm thơ vào cách đi của
người mộng du, đi trong mơ với cặp mắt mở to, mở to nhưng như không thấy gì,
nghe tất cả mà cuối cùng chỉ là những tiếng văng vẳng. Thân thể người làm thơ là
một bộ lọc, chỉ khi nào để yên cho thân thể mình lọc lại đời sống, rồi bất chợt nó
bật ra cái gì, thì đó mới là thơ”. Chính Thanh Thảo từng nói: “Nhà thơ là con
người không phải thiên thần”, nhưng những quan niệm trên đây của ông về hành
trình sáng tạo của nhà thơ chứng tỏ ông vẫn ôm ấp niềm tin về một năng lực hoạt
động tâm linh phi thường bên trong người nghệ sĩ. Năng lực đó giúp người nghệ sĩ
vượt qua mọi giới hạn, hứa hẹn khả năng khám phá thế giới vô tận bằng con
đường tinh thần đồng thời “hữu hình hóa”, “trật tự hóa” nó bằng ngôn ngữ. “Nhà
thơ đích thực là người có thể mơ khi đang tỉnh, và rất tỉnh khi đang mơ. Với họ có
ít nhất hai thế giới tồn tại song song. Và họ dễ dàng “đi lại” giữa hai thế giới ấy.
Cái nhìn trong suốt là cái nhìn của tâm hồn, và cái mờ ảo của ngôn ngữ là kết quả
của sự tương tác giữa hai thế giới”.
Nội lực tự ngã mạnh mẽ khiến nhà thơ có khả năng “đi trước” về trực giác:
“Nhà thơ, bằng trực giác của mình, có thể đi trước thời gian”. Sự sáng tạo của nhà
thơ không chỉ có ý nghĩa như một kiểu phát tiết cảm xúc hay giải tỏa gánh nặng
tinh thần, sứ mệnh cao cả hơn của anh ta là dự cảm. Từ chính những ám ảnh của
bản thân, nhà thơ phải tự hình thành cho mình một lý tưởng thẩm mỹ, để tác phẩm
của anh ta không dừng lại ở mức độ phản ánh những gì đang tồn tại mà còn hình
dung về những giá trị có khả năng hình thành hay biến mất. Năng lực dự cảm ấy
của người nghệ sĩ là một yếu tố quan trọng tạo nên tiềm năng tự tái sinh của nghệ
thuật: “Nhà văn không chỉ phản ánh mà còn phải nhìn thấy trước. Tác phẩm và
nhân vật của họ không chỉ là tấm gương cố định hay “tấm gương kéo trên đường”
mà còn phải là tấm gương có khả năng tái sinh qua thời gian, do những dự cảm về
bản chất nhân vật, bản chất hiện tượng của nhà văn đã khiến tác phẩm như tự tái
sinh trong mắt người đọc nhiều thế hệ […]”. Quan điểm này của Thanh Thảo hết
sức có ý nghĩa trong việc lý giải sức sống và khả năng sinh tồn của văn chương
giữa một thời đại đầy biến động, đồng thời nó cũng đặt ra sứ mệnh cho những
người cầm bút, những người có trách nhiệm không chỉ với tâm hồn của họ mà còn
với đời sống tinh thần của xã hội. Nhưng dẫu luôn hướng về tương lai, thơ tuyệt
đối không phải là sự phản bội hay cự tuyệt quá khứ, “Mỗi nhà thơ đi qua cuộc đời
này theo một lối riêng, và trong khi hướng về phía trước, nhà thơ cũng biết nhìn về
phía sau, về nơi từ đó mình ra đi”. Nhà thơ là người không ngừng sống trong quá
khứ, bởi đó là tất cả kinh nghiệm làm nên chiều dày, chiều sâu tâm hồn của con
người.
Mặt khác, nhà thơ, dù ở trong hoàn cảnh nào, phải luôn gìn giữ sự tự do
trong tâm hồn. Thanh Thảo quan niệm: “…thơ cần một sự tự do tuyệt đối trong
tâm hồn người làm thơ”. “Không thể có thơ ở một nhà thơ có tâm hồn nô lệ, dẫu
người ấy tài giỏi tới đâu, ngôn từ giàu có tới đâu”. Tự do tâm hồn là điều kiện tiên
quyết để người nghệ sĩ trải nghiệm, suy tư và sáng tạo. Chính sự tự do ấy có khả
năng khai phóng nguồn năng lượng tinh thần của nhà thơ, mở đường cho những
liên tưởng, tưởng tượng không biên giới, đồng thời nuôi dưỡng khát khao của
người nghệ sĩ đối với cái đẹp. “Là người làm thơ tôi nghĩ phải vừa khao khát vừa
bình tĩnh […]. Mà cái khát đầu tiên phải là khát vẻ đẹp của thơ, khát cái tuyệt mỹ
của từng câu thơ, từng phần thơ, từng bài thơ, khát cái sức mạnh mà thơ có được
để đến với người đọc, khát cái sức sống của bài thơ ngay khoảnh khắc người ta
đọc nó”.
Một phẩm chất quan trọng khác của nhà thơ, theo Thanh Thảo, là sự chân
thành. “Sông có khúc, người có lúc, thơ cũng có thì, nhưng người làm thơ trong
mọi khúc và mọi lúc đều phải tuyệt đối chân thành với chính mình, để từ đó, chân
thành với cuộc đời”. Điều này có ý nghĩa như một sự định hướng về mặt tinh thần,
rằng những tác phẩm của người nghệ sĩ dù đi ngược về xuôi thế nào, trước sau vẫn
phải chân thật và trung thành với con người và đời sống. “Người viết phải sống hết
mình, yêu thương và căm giận hết cỡ, và tuyệt đối chân thành với chính mình,
cũng là chân thành với cuộc đời. Cứ như thế, cộng với cái “trời cho” là tài năng,
nhà văn sẽ có tác phẩm, dù không “ngang tầm thời đại” gì đó như người ta hay nói
một cách sáo rỗng, thì đơn giản nhất, cũng khiến người viết không phải ngượng
với chính mình”. 1.3. Quan niệm về việc sáng tạo
Quan niệm của Thanh Thảo về việc sáng tạo gắn liền với quan niệm về thơ
và nhà thơ. Theo ông, sáng tạo là biểu hiện của sự sống, nghệ thuật bắt nguồn từ
nội tại cuộc sống: “Không phải vì chống lại cái chết mà con người sáng tạo. Chính
nhu cầu tự thân của cái sống làm nảy lên cây táo non, làm nảy lên nghệ thuật”. Sự
ra đời của thơ ca không nằm trong chủ ý của thi nhân nhằm đạt đến sự bất tử về
tên tuổi, nó trước hết là một kiểu phản ứng của nhà thơ đối với những xung động
tình cảm trong tâm hồn mình và với thế giới. Thơ ra đời vì nhu cầu của nhà thơ
cần được giải tỏa khỏi những ẩn ức tinh thần, và trong quá trình tìm cách biểu hiện
những ẩn ức ấy, người nghệ sĩ đã tự lưu dấu mình lại trong thời gian một cách hồn
nhiên nhất. Nói cách khác, cũng vì bắt đầu từ sự sống và những năng lượng sống
mà nghệ thuật không bao giờ tàn lụi. Quan điểm này của Thanh Thảo có thể được
liên tưởng tới phát biểu của nhà phê bình Marcel Reich Ranicki: “Ai làm thơ,
người đó nổi loạn chống lại cái vô hằng. Ngay cả khi nó báo trước về sự sụp đổ,
tôn thờ cái chết và ca ngợi sự suy tàn, thi ca – dù nó muốn hay không - vẫn bác bỏ
sự sụp đổ, cái chết và suy tàn. Thơ là sự khẳng định cuộc sống”.
Xuất phát từ một góc nhìn khác, Thanh Thảo cho rằng sáng tạo bên cạnh là
một hành trình tinh thần mang tính giải khuây còn là một cuộc phiêu lưu đầy hứng
thú và nguy hiểm. Một mặt, “thơ đưa người làm thơ vào cách đi của người mộng
du, đi trong mơ với cặp mắt mở to, mở to những như không thấy gì, nghe tất cả mà
cuối cùng chỉ là những tiếng văng vẳng”. Mặt khác, “thơ tự bản thân nó là nguy
hiểm. Nó nguy hiểm trước hết với người đẻ ra nó, là nhà thơ. Nhiều nhà thơ đã
chết vì thơ của mình”. Thơ là nguyên nhân đem lại niềm hứng khởi, khoái cảm
thẩm mỹ cho nhà thơ, đồng thời cũng là duyên cớ đem lại cho nhà thơ biết bao day
dứt, khổ sở. Nhưng vì tính hai mặt đó của thơ khiến con người càng không thể
thiếu thơ trong cuộc đời, bởi bản thân cuộc đời cũng là một bể hỗn độn vui - buồn,
cười – khóc. Nhà thơ Heine có lần tự hỏi liệu có phải thơ là căn bệnh của loài
người, giống như “viên ngọc thực ra chỉ là tác nhân khiến loài trai khốn khổ”,
điều ấy cũng có thể. Cho đến cuối cùng, thơ vẫn “mãi mãi là bí mật”, là một kênh
giải thoát cũng là một chốn “đày ải” tinh thần con người trong một niềm say mê,
khát khao không bao giờ dứt.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.