• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
QUÊ NỘI PHÙNG QUÁN - BIẾT MẤY LÀ THƯƠNG

QUÊ NỘI PHÙNG QUÁN - BIẾT MẤY LÀ THƯƠNG



                                                                                                             Nhụy Nguyên 
 
Phùng Quán sinh năm 1932, tại làng Thanh Thủy Thượng, tổng Dạ Lê, nay là phường Thủy Dương, huyện Hương Thủy.
Với tấm lòng của họ thân thuộc và bè bạn trên khắp đất nước, ông đã được đưa về quê nội nơi đây. Một cuộc “trở về” gợi thật nhiều kỷ niệm…
 

NGÔI LÀNG HOÀI NIỆM
 

Thủy Dương được hình thành với tên làng Thanh Thủy Thượng vào năm Cảnh Hưng nguyên niên (1740), do số dân nghèo từ làng Thanh Thủy Chánh (nay thuộc xã Thủy Thanh với di tích Cầu Ngói Thanh Toàn nổi tiếng) tiến vào núi Sầm sinh sống. Địa hình làng Thanh Thủy Thượng hình một con dơi. Đáng chú ý nhất là phía đông với dòng sông Lợi Nông uốn lượn (dân bản địa gọi là Lệ Nông - giọt lệ của nhà nông). Là một nhánh của dòng sông Hương thơ mộng, nó dài khoảng 60km, đổ ra phá Tam Giang; chảy qua xã Thủy Dương như một nét vạch tự nhiên của người hoạ sĩ trên bức vẽ. Dòng Lợi Nông nước mặn tình người tục truyền, được vua Gia Long đào với mục đích: hình thành tuyến đường vận chuyển vật liệu để xây lăng cho mình ở núi Sầm. Nguyên nhân bởi núi Sầm có hình thù giống một con voi đang quỳ ngủ - ai làm gì mặc, voi cứ ngủ. Vậy là chốn đất lành. Nhưng đấy không phải là niềm vui của dân làng nơi đây. Bởi theo người xưa, nếu làng nào có lăng mộ vua, ắt làng đó mạt! Chuyện kể: làng Thanh Thủy Thượng đã bí mật thuê thầy địa lý về giả bộ xem đất rồi tung truyền tin xấu, rằng chỗ này không được tốt - voi ngủ, rồi voi sẽ trở dậy phá phách... Tuy nhiên núi Sầm vẫn là chốn “có duyên” với bậc đế vương. Dưới chân núi Sầm giờ còn chùa Bà Hoàng, vốn là vợ của vua Khải Định, không có con. Khi vua có vợ hai, Bà Hoàng xin được hồi tôn, tới dựng một ngồi chùa dưới chân núi Sầm để ngày đêm niệm Phật quên muộn phiền.
Theo Lê Quý Đôn trong Phủ biên Tạp lục: trước năm 1776, làng Thanh Thủy Thượng đã trở thành một đơn vị hành chính dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Đến thế kỷ 18, vùng Thanh Thủy Thượng vẫn còn là rừng núi với nhiều loài thú như vượn, nai, báo, voi trú ngụ. Sang thế kỷ 19, dân cư của làng quy gọn trong 4 ấp, sống hai bên sông Lợi Nông. Do làng rất gần với sông, hơn nữa ruộng trũng, nên voi trong núi thường kéo nhau ra tắm. Dần dà làng có vinh dự là nơi giữ voi, chăm sóc voi cho vua; tầng lớp chuyên trách được gọi là lính Kinh tượng. Trong sổ đinh được bảo lưu tại làng Dã Lê Thượng (xã Thủy Phương) niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7 (1799) thời Tây Sơn có ghi: Dã Lê Thượng và Thanh Thủy Thượng (đều thuộc huyện Hương Thủy) đóng 30 xuất binh voi trận (Tượng cơ), trong đó Thanh Thủy Thượng có tới 16 quản tượng các Tượng cơ. Sử cũ thì viết: khi đại thắng quân Thanh, vua Quang Trung ngồi trên mình voi trận, áo bào nhuộm thuốc súng tiến vào thành Thăng Long... Các viên quản tượng, võ quan, binh lính của đất Hương Thủy cũng có mặt trong ngày hội ấy.
 

Song song với dòng Lợi Nông, Thủy Dương có con hói hướng lên núi Sầm rất đẹp. Không có tài liệu xác định rõ sự thể, song con hói tên gọi Bến Quan này được dân đây đào trong thời Gia Long, dài chừng ba cây số, nơi rộng nhất trên 10m. Ngày trước sống dọc con hói chủ yếu là địa chủ phú hào. Sự giàu có là điều kiện trực tiếp của vô vàn ngôi nhà rường to đẹp hiện diện trong làng. Tiếc thay nó đã đi vào cổ tích từ ngày giặc Pháp đốt làng dồn dân mà cố nhạc sĩ Văn Cao từng chứng kiến. Nhẩn nha cuốc bộ dọc con hói, ta sẽ gặp lại hình dáng quê xưa với cây cao, bến nước, mái đình cong. Đình làng nằm khoảng giữa con hói Bến Quan, cắt con hói bằng một hồ sen rộng hàng ngàn mét vuông. Trước đình làng có bàu nước sâu gọi là bàu Choàng. Loại cá nhiều nhất, béo và ngon nhất ở đây là cá rô, đã đi vào câu ca dao: Gạo de An Cựu, cá rô bàu Choàng. Cánh đồng Thanh Thủy Thượng quanh năm ngập nước, chỉ có vùng An Cựu là khô ráo, mới trồng được gạo de. Gạo de được coi là cây thần nông - chủ yếu dùng để tiến cung, dân chẳng mấy ai được ăn. Tôi về đất này có nhặt được hai cây “tuyệt bút”, đặt sệt tính dân gian: Mẹ già ăn tấm gạo de/ Đẻ con tóc quắn đi ve cả làng...
 

Theo bài văn tế làng có từ cuối triều Nguyễn: làng Thanh Thủy Thượng có 13 vị khai canh, là thủy tổ của các dòng họ: Lê Diên, Ngô, Nguyễn Diên, Lê Bá, Lê Viết, Lê Đô, Nguyễn Thanh, Phùng, Phan, Đặng, Trần, Phạm, Hồ (họ Lê Đô đến đời thứ 5 thì tuyệt tự, việc tế kị được làng ấn định vào tháng 7 âm lịch hàng năm để ghi ơn). Đa số các vị gốc ở Thanh Hoá theo Tiên chúa Nguyễn Hoàng vào khai khẩn Đằng Trong từ thế kỷ 16. Ngoài ra còn một số họ khác không được thờ tự trong đình, đều nhập cư sau này...
 

Tôi biết đến ông Chủ tịch là ngày vào trình tờ giấy giới thiệu của huyện năm 2002. Khuôn mặt ông tròn, hơi béo chút đỉnh, không thấy có ria mép song nụ cười cực kỳ bí ẩn. Hết nhìn tờ giấy có con dấu đo đỏ tròn tròn, ông lại nhìn mặt tôi vẻ ngờ vực. Nhưng rồi cũng ổn, tôi được chỉ định xuống tầng dưới làm việc với anh Trọng, phụ trách Ban Văn hoá. Ở đấy tôi thấy khá nhiều ảnh các vị lãnh đạo Đảng chụp trong những lần về thăm xã, như Lê Đức Anh, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười... Âu cũng là sự “thơm lây” từ tấm bằng Anh hùng Lao động Nhà nước tặng Hợp tác xã nông nghiệp Thủy Dương thời bao cấp. Với hơn 700 mẫu ruộng, Thủy Dương luôn đạt năng suất tuyệt đối cho giới truyền thông ngắm đến. Được biết chủ nhiệm Hợp tác xã ngày đó là ông Phanh (tên cứ như người Liên Xô thời Đất vỡ hoang). Đồng chí Lê Duẩn lần đến thăm đã ghi vào sổ lưu niệm như sau: “Tôi khen chú giỏi nhưng nhờ dân cũng giỏi”. Văn phòng Hợp tác xã giờ đã được xây lại hai tầng to rộng, thoải mái cho trên chục người làm việc. Một lần tới đây xin vài số liệu, thấy quá khó khăn khi phải làm việc với ông “phó” hay đi chiếc rim Tàu đời F9, nên tôi đã bỏ về tay trắng. Chẳng bù cho một nhà văn tên tuổi từng được Hợp tác xã nuôi một thời gian khá đài đổ mong viết được “cái gì đó” tô điểm cho sự làm ăn khấm khá. “Bỗng nhiên tôi cụt hứng” - đó là đầu đề một bài viết được đăng ở Tạp chí hẳn hoi, làm người làng người xã ai từng đọc đều cười chảy nước mắt. Chuyện rằng: có viên chức trên tỉnh xuống thăm Hợp tác xã, ông không được đón tiếp như bao người khác trong bắc ngoài nam có tước hiệu. Ông lạc loài giữa đón rước và tiệc tùng, bởi ai bảo cán bộ quyền cao chức trọng mà lại cưỡi mình trên chiếc xe đạp cà tàng...!
 

Thủy Dương chừ khác hẳn chuyện trầu cau... Khoảng giữa thế kỷ 16, sử cũ mô tả: Trên con đường giao thông chính chạy dọc Thuận Hoá đến tận đèo Hải Vân chỉ có bốn cái quán, cả xứ chỉ có ba chợ. Thiệt chẳng thể nào sánh được một góc nhỏ của Thủy Dương hôm nay. Khi mà bất động sản đang được chia xẻ đổi lấy đô la. Khi mà đâu đó đã rục rịch khởi động những ngôi nhà năm bảy trăm triệu để đua ganh với ông C. ông H. ông Z… nào đấy trưởng một phòng ban trên huyện. Và đâu đó đã hình thành nên những cụm dân cư “chả thiếu thứ gì”, gọi là tiền lệ để “lên thành phố”. Khu đô thị mới đang dần lộ hình hài...
 

DẤU ẤN PHÙNG QUÁN
 

Phùng Quán mồ coi cha từ năm lên hai. Mẹ là một thiếu phụ thuộc hoàng tộc. Bà ở vậy nuôi con cho đến lúc mất ở Huế. Mới bằng “hột mít”, Bê (tên hồi nhỏ của Phùng Quán) đã giúp mẹ chăn trâu, cắt cỏ ở làng, người đen nhẻm và nồng mùi bùn đất quanh năm.
 

Tuổi thơ của Phùng Quán tuy dữ dội nhưng lại được ẵm trong tầng không gian mượt mà cổ tích; đã khiến thằng Bê chăn bò vượt qua “lời nguyền số phận” theo như lời phán của một ông thầy bói trong làng: “Khi lớn lên, thằng này không ăn mày cũng ăn cướp”. Sau này ngồi với bạn bè gợi lại chuyện ngày cũ, Phùng Quán vin vào hai câu thơ của Etsenhin: Những số phận khác thường, sinh ra đều định trước. Tôi không nhà thơ thì cũng thành trộm cướp. Và chính vùng quê ấy, là “điểm nhớ” dai dẳng nhất trong chặng đời trầm luân của Phùng Quán, mặc dầu đấy là quãng thời gian ông chả được học hành gì.
 

Ai cũng biết đến một Phùng Quán câu trộm cá Hồ Tây, và sau khi “bỏ nghề”, ông lại làm một cái chòi, vừa để ngắm sóng vừa hưởng thú tao nhã của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ gửi lại (trầm mình bách kế bất như nhàn). Cái thú đó, thật ra tiềm ẩn trong “thằng Bê” thủa nào. Anh Lê Viết Lãm, cựu học sinh trường làng Thanh Thủy Thượng khóa 1956 - 1958 nhớ lại: “Những kỷ niệm ở trường làng thật là đẹp. Thủa ấu thời, vào khoảng bốn, năm tuổi tôi đã đi học vỡ lòng a, b, c tại đình làng được thầy giáo Lưu dạy. Lúc đó, bạn bè của tôi chỉ vỏn vẹn ba người là anh Bê, chị Lượng và chị Sen - ba người này học lớp cao hơn tôi; tôi được gần gũi với anh Bê nhiều hơn hết vì anh thường hay ra câu cá ở hồ sen trước đình làng. Tôi xách oi, cuốc trùn, móc mồi vào lưỡi cho anh. Những buổi trưa hè, tôi cũng thường theo anh ra bờ hồ, ngồi dưới gốc cây cổ thụ để hóng mát. Mùa này sen nở rộ khắp mặt hồ, mùi thơm dìu dịu thoảng bay trong gió...”. Ấy là thời khắc hiếm hoi để Phùng Quán nhận ra sự vô ơn của một câu ca cần phải đuổi mặt…
 

Cách mạng tháng Tám bùng nổ khi Bê mới được 13 tuổi. Giã từ những đóa sen thanh khiết, cậu bé Phùng Quán hòa mình vào dòng sông cách mạng hùng vĩ, làm một chiến sĩ của trung đoàn Trần Cao Vân; cùng những tháng ngày oanh liệt, được ông khắc họa bằng máu và nước mắt trong hơn một ngàn trang sách quý. Nhưng, can qua vô thường, sự chân thật như lưỡi dao vạch dòng thơ trên đá đã đẩy ông tới tận cùng sự cô đơn giữa một biển người. Im lặng. Một nỗi im lặng kiêu dũng “Như con còn vàng” lặn lội bên sông... Mãi cho tới năm 1984, “rời bỏ vùng núi Thái Nguyên, con suối Linh Nham, cái lán xiêu vẹo mái lợp tranh lá mía dột nát bốn bề”, ông trở về quê nội. Trước mắt ông là màu xanh ngọc của những thửa vườn lá non chen với màu xanh mượt mà của cánh đồng lúa đang độ con gái. Đằng đông sau rặng tre bên kia đồng, vài cánh buồn nâu thuắt ẩn thoắt hiện nhắc ông nhớ tới dòng Lệ Nông bi lụy. Những mái nhà gianh đứt rồi lại nối bởi các ngõ ngang dọc dẫn vào xóm. Ngậm ngùi:
 

Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm...
 

Xóm làng nghẹn ngào đón đứa con bao năm xa quê. Đêm ấy, Phùng Quán quỳ xuống lạy quê hương, lạy bà con lối xóm. Rồi ông Tạ:
 

Con tạ đất làng quê
Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất
Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt
Không lá cây nào không mặn chát gian lao

Nhiều người đã chép lại bài thơ Tạ ông đã sáng tác ngay chính trên đất làng quê nội sau hơn 30 năm “trăng mới tỏ Hoàng thành” dằng dặc xa cách. Ngay những đứa trẻ được chứng kiến ông “quỳ rạp trán” trước mọi người, mai lại gặp ở đâu cũng chỉ tay: “Ông Tạ. Ông Tạ đó!” Phùng Quán rất mãn nguyện, lại nấn ná ở lại thăm thú xóm giềng thân thuộc. Tới nay, tại đôi quán cà phê sáng bình dân dọc quốc lộ thuộc địa phận phường Thủy Dương, người ta còn nhắc mãi câu chuyện Phùng Quán tới nhà Ngô Hữu Giã. Hữu Giã là một ông giáo làm thơ trong làng. Lối sống của Hữu Giã rất khắt khe, kỳ cục đến nước vợ con chịu không nổi. Hữu Giã sống trong đói rách, quanh năm ăn xúp nhưng không hề nợ ai một đồng. Lần Phùng Quán vào chơi, thức ăn chỉ có khế chấm ruốc và rau sam luộc, cộng thêm một xị rượu độc nhất. Phùng Quán vỗ tay phét đùi khen bữa ăn ngon, cùng nâng ly ngâm thơ. Quà tặng chia tay là một quả bí to nhất trong vườn Hữu Giã, mà Phùng Quán đã phải rất nặng nhọc trên chuyến hành trình dọc chiều đất nước. Tôi cứ băn khoăn: chẳng rõ “món hàng” đó có liên quan gì tới Quả bí xanh tuyệt ngon mắt trong tập “Trăng Hoàng Cung” của Phùng Quán hay không? Chỉ biết, ông quý nó hơn cả quả dưa hấu ông từng cúi lạy!

 

Mùa đông năm 1994, ông mặc chiếc áo trắng “bám” chi chít chữ ký của bạn bè từ Sài Gòn ghé thăm Thanh Thủy Thượng lần chót. Đúng vậy, Phùng Quán ra Hà Nội và không còn gượng dậy được nữa! Thật đáng tri ân, ông đã được bạn bè đưa về quê nội nên thơ; ở đấy, tin chắc nhà thơ sẽ yên bình mơ về Tuổi thơ dữ dội./.
 
Nguồn: vanchuongviet.org



Tin tức khác

· HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI
· CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG
· LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG
· NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG - LÒNG TÔI THÀNH CÁNH GIÓ LUNG LINH
· NHƯ LÀN HƯƠNG VÀ GIỌT SƯƠNG MAI - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TỪ BỤC GIẢNG ĐẾN TÁC PHẨM - HÀNH TRÌNH LAN TỎA YÊU THƯƠNG
· VỊ THÁM HOA NÀO 10 NĂM GIỮ CHỨC TỂ TƯỚNG KHIẾN THIÊN HẠ YÊN VUI!
· BA NHÂN VẬT CÓ THẬT TRONG LỊCH SỬ XUẤT HIỆN TRONG MINH GIÁO GỒM NHỮNG AI?
· VÌ SAO KINH THÁNH KHÔNG HỀ NHẮC ĐẾN KIM TỰ THÁP AI CẬP?
· NHỮNG GIỌT SƯƠNG BAN MAI TINH KHIẾT - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· 'NHIỆM VỤ BẤT KHẢ THI' CỦA NỮ TÌNH BÁO MANG BÍ SỐ B3 CÙNG ĐIỆP VIÊN PHẠM XUÂN ẨN
· VÌ SAO LÊ ĐẠI CANG ĐƯỢC XEM LÀ 'BẬC HIỀN TÀI TOÀN NĂNG' CỦA TRIỀU NGUYỄN?
· LẮNG NGHE ƯU TƯ CỦA HIỀN GIẢ - Tiểu luận HỒ ANH THÁI
· NGÀN NĂM CHĂM PA TRONG VĂN HÓA XỨ QUẢNG
· DÒNG THƠ VĂN CỦA THANH TÂM TUYỀN - Tiểu luận ĐẶNG TIẾN
· TRẦN QUÝ HAI - VỊ TƯỚNG UY DŨNG
· TOP 5 QUÂN SƯ KIỆT XUẤT CỦA TAM QUỐC DIỄN NGHĨA, GIA CÁT LƯỢNG XẾP THỨ MẤY?
· TÔ THÙY YÊN - NHÀ THƠ VIỆT NAM
· DÓNG DANG CHĂMPA TRONG HỒN THƠ BÀN THÀNH TỨ HỮU
· VÌ SAO LÊ THÁI TỔ ĐỔI TÊN LAM SƠN THÀNH LAM KINH?

Tin tức mới
♦ CHÙM THƠ PHẠM PHƯƠNG LAN - HỐT HOẢNG GIẬT MÌNH NGÀY RƠI QUA VAI... (30/11/2025)
♦ BỘI PHẢN - Truyện ngắn của BẢO NINH (30/11/2025)
♦ HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI (30/11/2025)
♦ CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG (30/11/2025)
♦ LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG (29/11/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1819048
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 69303
Truc tuyen Trực tuyến: 2

...

...

Designed by VietNetNam