TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
THĂM LÀNG ĐÚC ĐỒNG PHƯỚC KIỀU – QUẢNG NAM
THĂM LÀNG ĐÚC ĐỒNG PHƯỚC KIỀU – QUẢNG NAM
NGUYỄN THANH TUẤN
Làng đúc đồng Phước Kiều - Quảng Nam hình thành từ thời chúa Nguyễn, vốn có nguồn gốc từ Thanh Hóa, do Dương Tiền Hiền di cư vào đây xây dựng và truyền dạy đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, xã hội và đặc biệt là cơ chế thị trường từ cuối những năm tám mươi đến nay. Vào cuối thế kỉ XVIII, làng có hai phường, đó là phường tạc tượng Đông Kiều và phường chú tượng Phước Kiều. Bên cạnh việc sản xuất các sản phẩm gia dụng và mỹ nghệ cao cấp, các nghệ nhân còn đúc súng đạn, ấn tín... cho nhà Nguyễn. Một số nghệ nhân giỏi được vua Minh Mạng cho mời về đúc tiền, đúc ấn để thờ tại Thế Miếu - Huế. Sang đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn sáp nhập hai phường này thành xã hiệu Phước Kiều còn gọi là làng đúc đồng Phước Kiều. Hiện nay, nghề đúc gặp nhiều khó khăn và mai một đi nhiều xong vẫn còn đó những người luôn cố gắng giữ nghề như giữ truyền thống văn hóa địa phương nói chung và văn hóa dân tộc nói riêng. Gọi là “làng” nhưng chỉ có Xí nghiệp nhôm đồng Phước Kiều, Cơ sở đúc nhôm đồng Nguyễn Mạnh và một vài hộ đúc lẻ tẻ khác còn gắn bó với nghề, số còn lại đã chuyển sang buôn bán, nghề nông hoặc các nghề khác…
Đạp đất
Khi về Cơ sở đúc nhôm đồng Nguyễn Mạnh và Xí nghiệp nhôm đồng Phước Kiều nằm trên quốc lộ 1A, thuộc địa phận xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (là cầu nối đô thị cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn) hôm nay mới mường tượng hết sự khó khăn và những tinh hoa, nét độc đáo cần phải ra sức bảo tồn của làng nghề này.Nhìn những người thợ cần mẫn chọn đất sét, phơi khô, đập nhỏ sau đó pha chộn với chấu, tro và nhào nặn thành một hợp chất rẻo, mịn. Tiếp theo là khâu tạo khuôn, nung khuôn, sát khuôn rồi giáp khuôn. Công việc tuy không quá phức tạp, nhưng đòi hỏi sự, tỉ mỹ, khéo léo và khiếu thẩm mỹ cao. Qua đây, mới thực sự thấu hiểu được những lời tâm sự của ông Nguyễn Mạnh, chủ cơ sở đúc nhôm đồng mang tên ông – một người con tâm huyết với nghề. “Để giữ nghề và sống được bằng nghề là một việc khó, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng mỗi khi nghe âm vang của tiếng cồng chiêng trong mỗi mùa lễ hội Tây Nguyên, mỗi sáng thức dậy lắng nghe tiếng chuông chùa vang vọng, tiếng mỏ ngân nga mỗi chiều mưa gió… Chúng tôi lại càng cảm thấy yêu nghề và tự cố gắng nhiều hơn! Mỗi tiếng chuông ngân, tiếng cồng vang lên đều chứa đựng văn hóa, linh hồn dân tộc và lời căn dặn của tổ nghiệp”...
Tạo khuôn
Khi khuôn đã được giáp chính xác và kiểm tra kỹ lưỡng nhiều lần, người thợ tiếp tục khâu chọn đồng, pha chế đồng. Mỗi cơ sở có bí quyết pha chế hợp kim riêng như đồng đỏ, đồng thau (tức đồng pha thiếc), đồng xanh (đồng pha kẽm), đồng thòa (đồng pha vàng) để tạo ra các sản phẩm khác nhau. Tiếp theo là khâu nấu chảy đồng, rót đồng vào khuôn và cuối cùng là khâu làm nguội. “Người thợ Phước Kiều phải có sự từng trải, bàn tay khéo léo, đôi tai tinh nhạy, cũng như kinh nghiệm cảm nhận âm thanh một cách tinh tế mới chế tác được các loại nhạc cụ độc đáo, phù hợp với từng vùng dân tộc: âm Ê Đê sôi động, tiếng chiêng Ba Na trầm lắng, điệu nhạc khoan thai và ngẫu hứng của người Cơ Ho... Dân cư sống dọc Trường Sơn, Tây Nguyên, Bình Phước là thị trường lớn của Phước Kiều. Sản phẩm của làng nghề suốt 200 năm chủ yếu là cồng chiêng và chuông, phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt văn hóa của các dân tộc thiểu số, với số lượng hơn 3.000 bộ các loại. Thương hiệu Phước Kiều đã nổi tiếng, lan tỏa ra các vùng miền khác, sang tận Lào và Cam-pu-chia”.
Nung khuôn
Trả lời phóng viên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Dương Ngọc Truyền - Giám đốc Xí nghiệp nhôm đồng Phước Kiều, thành viên của Hiệp hội đúc đồng làng nghề Phước Kiều nói: “Với khoảng thời gian hơn 200 năm hình thành và phát triển, làng đúc đồng Phước Kiều luôn được các thế hệ đời sau gìn giữ và phát triển, nhất là hệ thống các “bí quyết” cũng như sản phẩm làm ra của Làng. Tuy nhiên, trong điều kiện cạnh tranh và kỹ thuật luyện kim khí hiện đại như ngày nay, đòi hỏi bản thân từng người thợ phải có trách nhiệm giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống mà cha ông để lại. Song, vai trò chủ động liên kết phát triển của tổ chức làng nghề hết sức quan trọng. Đã có thời, việc làm này không được xem trọng nên dẫn đến sự sa sút, thậm chí tưởng như làng nghề Phước Kiều đã bị “xóa sổ”.
Nấu đồngRót đồng vào khuôn
Thử tiếng
Theo kết luận của huyện Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam), “trước đây làng đồng Phước Kiều gần như “chết”, do thu nhập thấp, không tin tưởng vào làng nghề truyền thống có thể phát triển nên nhiều người trong làng đồng Phước Kiều đã chuyển đổi sang nghề khác. Vì vậy mà số người lao động trong nghề này đã đi vào hướng giảm dần”. Mặc dầu vậy, với sự độc đáo, sức sống bền bỉ và tâm huyết của những người con quyết tâm giữ nghề làm rạng danh tiên tổ, giữ hồn dân tộc như ông Nguyễn Mạnh, Dương Ngọc Truyền, các nghệ nhân và những người thợ… chúng ta có quyền tin tưởng rằng làng nghề sẽ thịnh vượng trở lại.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.