TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TỐ HỮU - BỐN MÙA TƯƠI NỞ MỘT HỒN THƠ XUÂN
TỐ HỮU - BỐN MÙA TƯƠI NỞ MỘT HỒN THƠ XUÂN
ĐOÀN TRỌNG HUY
“Bốn mùa trời đất tươi nở tâm hồn suốt một đời thơ. Đó chính là hình ảnh quê hương đất nước Việt Nam muôn vàn thân yêu với vẻ đẹp tuyệt diệu hiện thực mà kỳ ảo, chuyển vần biến hóa tháng năm theo dòng lịch sử…”
Có một cảm thức thời gian - cảm thức mùa trong thơ Tố Hữu:
Một năm có bốn mùa theo thiên văn. Mùa là phần thời gian phân chia xác định (ba tháng). Đông qua, xuân tới, hè về, thu sang… cứ thế chuyển vần tuần tự trong năm.
Bốn mùa thiên nhiên cũng là đề tài muôn thở của thi ca, nghệ thuật theo cảm hứng, tâm trạng của thi nhân, nghệ sĩ trong thời đại.
Tố Hữu không ngoài lệ ấy. Đọc kỹ, ta thấy đủ bốn mùa qua một hồn thơ hay đúng hơn, bốn mùa trong một hồn thơ mẫn cảm, đặc biệt nổi bậtlà mùa xuân. Một thời, người đọc đã đón đợi thơ xuân Tố Hữu cũng vì thế.
MÙA - CẢM THỨC THẤM ĐƯỢM HỒN THƠ
Tuyên ngôn Từ ấy gắn với mùa hè. Một mùa hè hiện thực với ngày tháng đươc kết nạp Đảng. Cũng là mùa hè tượng trưng cho lý tưởng. “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. Trải qua những ngày hè tràn đầy bức bối, ngột uất là tâm trạng hừng hực lửa chiến đấu. “Ta nghe hè dậy trong lòng/ Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi!”(Khi con tu hú)
Cái gam màu thích hợp nổi bật của mùa hè thơ Tố Hữu lúc này có lẽ là màu đỏ. Nắng đổ lửa, “nắng gắt” như màu nắng đặc trưng (Trưa tù, Dưới trưa).
Mùa hè “nóng” tương tự xuất hiện khá nhiều những năm kháng chiến vẫn mang nét vừa hiện thực, vừa tượng trưng. Cùng với “mặt trời vừa lên” buổi “sáng hè” là màu “đỏ au” lan tỏa hào hùng những bước chân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” (Nước non ngàn dặm).
Mùa thu thấp thoáng trong Việt Bắc giàu ý nghĩa tượng trưng “Tháng Tám mùa muà thu xanh thắm”. Ấy là cái gam màu sáng láng của cách mạng: “Đã sáng lại trời thu tháng Tám” (Ta đi tới). Mùa thu mới là hình ảnh mùa thu chế độ. “Mùa thu đây hỡi cờ hồng vàng sao” rõ là mùa thu cách mạng.
Thực ra cũng có chút màu vàng hiện thực lãng đãng đó đây ở “nắng trưa đồng vàng” trong chùm thơ về xứ Thanh sau này.Phải vào tuổi “cuối thu”, mùa thu thiên nhiên mới như tràn vào thơ. “Sáng thu nay đẹp đất trời” (Phồn Xương)… “Lắng nghe quan họ đêm thu/ Mênh mang sông nước… (Đêm thu quan họ)… “Có gì trong nắng thu sang”: có cái đẹp mơ màng “Long lanh Như Ang… (Ngọc Lặc) pha nét thắm thiết “Sương thu xanh ngát ngàn Nưa” (Nông Cống) .Đây là cảm nhận của cuộc hành hương thực tế như “đường về tuổi xuân” một thời.
Có cái rét ghê người não buồn màu xám qua mùa đông những năm tù đày ở Từ ấy và cũng có cái rét tê, rét buốt khủng khiếp “Ret Thái Nguyên rét về Yên Thế/ Gió qua rừng Đèo Khế gió sang”… Nhưng cái rét cắt thịt, cắt da ấy xét cho cùng chỉ là thử thách. Thơ nói chí: “Rét thì mặc rét, nước làng em lo” (Phá đường). Con người hành động với “tiếng cuốc chiến khu” như ngôn ngữ hào hùng vẫn át hết “gió rét, trăng lu” của trời đêm khắc nghiệt.
Xét kỹ trong mùađông thời chiến vẫn ủ ấp cái ấm áp lòng người. Khác nào những bông “hoa chuối đỏ tươi” – ngọn lửa bùng lên, bừng tỏa trên xanh thắm núi rừng cùng với cái “nắng ánh” lấp loáng như phản xạ hồn người trên đỉnh cao lao động. Nét tượng trưng ấy ngày càng nổi bật trong niềm hy vọng của nhà thơ đã từ rất lâu: “Trời hôm nay dầu xám ngắt mùa đông/ Ai cản được mùa xuân xanh tươi sáng” (Xuân đến). Cho tới mãi sau này trong cảnh. “Còn đông đó. Gió mùa lạnh ngắt” vẫn là cảm nhận cái rét buốt thời tiết thời sự thời đại trong vận chuyển “Có lẽ đất trời đang biến động” để hy vọng “Vạn xuân này, muôn thuở xanh tươi” (Vạn xuân).
Thế đấy,với Tố Hữu mùa xuân thực sự lên ngôi trong “Đời ta, ta sống”. Mùa xuân được nhà thơ coi như báu vật thiêng liêng của đất trời: “Muôn đời trời đất tặng mùa xuân”. Nếu thống kê ta sẽ có một con số thú vị: thơ xuân (về mùa xuân, vào mùa xuân) chiếm tỷ lệ cao nhất trong thơ bốn mùa. Màu xanh chính là màu xuân “muôn thuở xanh tươi” ngự trị.
Có ba hình vẻ xuân tiêu biểu nhất:
Xuân kiêu hùng, ngạo nghễ trong đấu tranh (Ý Xuân, Xuân đến, Xuân nhân loại…)
Xuândũng cảm,anh hào trong kháng chiến(Tiếng hát sang xuân, Bài ca xuân 68, Xuân 69…)
Xuân hiên ngang, mãnh liệt trong xây dựng (Bài ca mùa xuân 61, Ta vẫn là xuân, Vạn xuân, Chào xuân 99, Du xuân, Cảm nghĩ đầu xuân 2002…)
Đó là dáng hình, là khí thế trong tâm hồn xuân Tố Hữu. Xưa kia mơ ước “Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới”. Rồi đến lúc vỡ òa, mãnh liệt thành hiện thực sau này. Đúng là thời nào, xuân ấy. Mùa xuân mang dấu ấn lịch sử in đậm lịch sử một hồn thơ.
Từ Gió lộng đã xuất hiện mùa xuân với vẻ đẹp mới hiện thực mà lãng mạn. Tiếp những năm vừa chiến đấu, vừa xây dựng rồi hòa bình thống nhất, đổi mới… Trước sau, vẫn là cảm quan thẩm mỹ đậm đà kết hợpcác bình diện xuân đất trời, xuân chế độ, xuân cuộc đời qua xuân tâm hồn. Đó là sự kết hòa rất tài hoa của một thi sĩ bậc thầy.
MÙA - ĐẶC TRƯNG THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
Chủ đề mùa trong nghệ thuật nói chung, với các nghệ sĩ tài năng đều mang đặc sắc của cá tính sáng tạo.
Trước hết là ở tính đa nghĩa. Mùa là thời gian nhưng gắn bó chặt chẽ với không gian, tạo nên một thời - không gian. Từ đây tạo ra cảm giác màu thời gian.Đoàn Phú Tứ có Màu thời gian “tím ngát”. Ở Tố Hữu sinh động và đa sắc hơn nhiều. Chủ yếu qua đó là hồn cốt của tác phẩm. Hoặc là thần sắc như Mùa thu vàng của danh họa Lêvitan – Nga (Isaac Ilyich Levitan – 1860 – 1900) nêu đặc trưng rừng Nga, Mùa xuân của Cot – Pháp (Pierre Auguste Cot – 1837 – 1983) làm bật thần khí tuổi trẻ trong thần thái thiên nhiên. Có cái buồn da diết, lãng mạn của nhạc tiền chiến trong ca khúc Đêm thu, Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong hoặc Đêm đông của Nguyễn Văn Thương.Trong thi ca, dấu ấn mùa thu của Lý Bạch, nhất là Đỗ Phủ đời Đường vớiThu hứng tám bài vẫn truyền lưu những cảm xúc đặc sắc qua hàng nghìn năm. Các văn hào, thi hào Pháp thế kỷ XIX cũng để lại nhiều thi phẩm về mùa thu diễm lệ (Charles Beaudelaire, Paul Verlaine, Anatole France) đặc biệt Victor Hugo (1803 – 1885) có tập Lá thu đột phá mở rộng kích thước rộng lớn của thời gian, không gian. Thời Thơ mới nhiều tác giả có thơ hay. Xuân Diệu: Đây mùa thu tới, Hàn Mặc Tử: Mùa xuân chín. Lưu Trọng Lư: Tiếng thu. Nguyễn Bính được coi là nhà thơ viết nhiều nhất về mùa xuân. Mùa trong Thơ mới đã hiện đại khác với Tản Đà, Nguyễn Khuyến.
Trở về với Tố Hữu, ta thấy nhà thơ hầu như đã hội đủ những thần sắc,thần thái và thần khí của không - thời gian qua biểu hiện mùa.
Bài ca mùa xuân 61 rất tiêu biểu về tính phong phú của chủ đề. Có cả sự sống, tình yêu, tuổi trẻ của tác phẩm kinh điển như Mùa xuân - họa của Pierre Auguste Cot hoặc Mùa xuân vĩnh cửu- tượng của Pierre Rodin… Nhưng vượt lên tất cả là một tư tưởng nghệ thuật mới: “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người yêu người, sống để yêu nhau/ Đảng cho ta trái tim giàu/ Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay”.
Hồn cốt bài thơ xuân nằm ở những câu thơ tung hoành “Cả không gian như xích lại gần/ Thời gian cũng quên tuần quên tháng/ Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng”.
Có cả phong vị dân gian và cổ điển qua những hình ảnh như hư, như ảo của thời gian bất định nhưng hiện thực, rất ngày nay khác xa Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính. “Ngày xuân mơ nở trắng rừng” (Việt Bắc)… Như ngàn năm đẹp nét xuân xưa/ Bỗng tỏa gương trong sạch bụi mờ” (Xuân sớm)
Ở Tố Hữu có sự kết hợp hài hòa tuyệt diệu xưa – nay, truyền thống – hiện đại. Rồi cả hiện thực và lãng mạn, chân và ảo… nhiều nét đặc sắc của một phong cách sử thi – trữ tình – dân tộc nhất quán đời thơ.
Cảnh sắc, âm thanh, nhạc điệu, tâm hồn,… cảnh và tình, người và cảnh quấn quyện thật sinh động, đẹp đẽ qua hình tượng thơ, ngôn ngữ thơ. Đã có không ít lời ca ngợi cái đẹp của bộ tứ bình bốn mùa trong Việt Bắc qua đoạn thơ tiêu biểu “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi…/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”. Rồi cái đẹp “Giữa mùa hè chín mẩy/ Xibêri hay Tiblixi” đất Nga (Với Lênin), mùa xuân với “nắng tràn” và “ tiếng đàn xuân” Balan (Em ơi… Ba lan). Cũng không thể quên bức tranh hào sảng, rực rỡ, thắm thiết ở Nước non ngàn đặm “Sáng hè đẹp lắm, em ơi /Đầu non cỏ lục, mặt trời vừa lên /Da trời xanh ngát, thần tiên /Đỏ au đường lớn mang tên Bác Hồ /Trường Sơn mây núi lô xô /Quân đi sóng lượn nhấp nhô… bụi hồng”. Thật hòa sắc, hòa điệu va khí thế biết bao!
***
Bốn mùa trời đất tươi nở tâm hồn suốt một đời thơ.
Đó chính là hình ảnh quê hương đất nước Việt Nam muôn vàn thân yêu với vẻ đẹp tuyệt diệu hiện thực mà kỳ ảo, chuyển vần biến hóa tháng năm theo dòng lịch sử.
Thiên nhiên thực sự là một nhân vật thẩm mỹ đặc sắc.
Cũng là thêm một minh chứng hùng hồn: con người thiên nhiên và con người chính trị là một trong nhà cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.
Thành phố Hồ Chí Minh, 12.2012
_____________
Tác giả Đoàn Trọng Huy là phó giáo sư, tiến sĩ Trường đại học Sư phạm Hà Nội.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.