TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
TRUNG TƯỚNG PHẠM XUÂN THỆ: CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ
TRUNG TƯỚNG PHẠM XUÂN THỆ: CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ
Hoài Hương (thực hiện)
Phó Chính ủy Công Trang khi thấy tôi đã quát: "Anh ở đâu? Anh ở đơn vị nào? Ai cho phép anh tự ý đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh? Nếu anh làm sai tôi cách chức anh, bỏ tù anh...".
Ngày 14/4/2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định phong tặng Trung tướng Phạm Xuân Thệ danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ.
Gặp gỡ & Đối thoại tuần này trò chuyện với Trung tướng Phạm Xuân Thệ, người áp giải Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng quân cách mạng. Đại úy Phạm Xuân Thệ ngày ấy, bây giờ là Trung tướng Phạm Xuân Thệ, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân chia sẻ những câu chuyện ông giữ kín suốt 36 năm qua.
Trận đánh đầu tiên và trận đánh cuối cùng
Thưa ông, khi nhập ngũ và là một tân binh mang quân hàm binh nhì, ông có nghĩ cuộc đời binh nghiệp sẽ mang ông đến vị trí một vị tướng trận?
Tôi nhập ngũ vào ngày 5/8/1967, lúc đó ước mơ trở thành một sĩ quan đã là một ước mơ lớn, làm chỉ huy là ước mơ quá lớn. Nhưng rồi qua chiến trận, qua sự trưởng thành thử thách trong chiến đấu, dần dần tôi đã được cấp trên tín nhiệm giao cho các vị trí chỉ huy lần lượt từ cấp trung đội (B phó) lên dần Đại đội (C trưởng), rồi Trung đoàn (E phó E.66), Sư đoàn (F trưởng F.304), Tư lệnh Quân đoàn 2, và Tư lệnh Quân Khu 1.
Trận đánh đầu tiên trong ký ức của ông như thế nào?
Khi đó tôi mới nhập ngũ, được tăng cường vào C11, D9. Trận đánh đầu tiên vào ngày 2/5/1968, với nhiệm vụ tập kích đại đội lính Mỹ ở điểm cao 425, phía tây Khe Sanh. Đơn vị tôi sau khi tiêu diệt địch đã làm chủ trận địa, một số đơn vị rút về phía sau, riêng trung đội của tôi thì được lệnh chốt giữ. Và 2 ngày đêm ác chiến sau đó thật dữ dội vì bộ binh Mỹ tấn công hòng chiếm lại cao điểm.
Lần đầu ra trận tôi cũng rất sợ, không biết khi thấy kẻ địch mình sẽ như thế nào. Nhưng rồi khi tiếng súng vang lên khai hỏa trận chiến thì tôi không cảm thấy sợ, mà chỉ nghĩ hãy nhanh chóng phát hiện kẻ địch và tiêu diệt.
Được biết ông có một biệt danh "Cơn lốc động Cô Tiên"?
À, đó là anh em trong đơn vị vui đùa và yêu mến đặt cho biệt danh. Nhưng đó cũng là một kỷ niệm chiến trận: Lần đầu tôi bị thương khắp người ở vai, cổ, tay... do đạn cối cá nhân của đối phương. Đó là trận đánh tôi không thể quên.
Ngày 2/6/1970, tiểu đoàn của tôi đã đánh tan 1 tiểu đoàn và sở chỉ huy của E56 quân Sài Gòn vừa nhảy dù xuống động Cô Tiên, Quảng Trị. Có thể do lúc đó ở vị trí chỉ huy, tôi đưa ra cách đánh xông xáo, táo bạo, dũng cảm và lần đầu tiên một tiểu đoàn của ta tiêu diệt gọn một tiểu đoàn của địch.. được Bộ Tư lệnh QK Trị Thiên công nhận, nên đồng đội đặt cho biệt danh.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ
Thế còn trận chọc thủng "Mắt ngọc" Thượng Đức?
Đây là trận đánh lớn nhất của tôi cho tới lúc bấy giờ. Tôi ở vị trí Tiểu đoàn trưởng D9. Khoảng tháng 6-7/1974, E66, F304 nhận được lệnh từ BTL Quân đoàn 2 vào mặt trận Quảng Đà, cùng các đơn vị thuộc Quân khu 5 tiến đánh và giải phóng quận lỵ Thượng Đức ở phía Tây TP Đà Nẵng (nay là huyện Đại Lộc, Quảng Nam).
Thượng Đức lúc đó được Tỉnh trưởng Quảng Nam mệnh danh là "Cánh cửa thép" của Đà Nẵng, còn Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của chính phủ Sài Gòn thì ví căn cứ này là "Mắt ngọc của đầu rồng". 10 ngày chiến đấu kiên cường và ác liệt, từ 5.30 giờ ngày 29/7/1974 đến 8.30 giờ ngày 7/8/1974, ta đã làm chủ Thượng Đức. Nhưng cái giá phải trả cũng khá đắt, địch bị tiêu diệt 2000 quân, bên ta hy sinh 1.028 đồng chí.
Khuấy đục Nước Trong có phải là trận đánh cuối cùng không thưa Trung tướng?
Chính xác là trận đánh căn cứ Nước Trong, Long Bình là trận đánh lớn cuối cùng. Vì sau trận này, đơn vị chúng tôi tiến quân áp sát Sài Gòn, chỉ đánh lẻ tẻ trên đường. Ngày 21/4/1975, E66 được lệnh đánh chiếm cứ điểm này. Tôi được lệnh trực tiếp chỉ huy D8, đánh cầu Bình Tuy thọc vào thị xã Hàm Tân, sau 2 giờ giao tranh, ta làm chủ thị xã. Sáng 23/4/1975 đến đồn điền cao su Ông Quế cách Sài Gòn 60km, lúc này tôi mới biết đơn vị đang tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn.
Theo kế hoạch tác chiến của chiến dịch, để tiến đánh Sài Gòn từ phía Đông, Quân đoàn 2 cần thành lập một binh đoàn thọc sâu, E66 cùng các đơn vị tiến đánh căn cứ Nước Trong và tổng kho Long Bình. Khi các E9, E24 đánh xong trận Nước Trong, một phần tổng kho Long Bình thì cùng E66 tiến thẳng vào nội đô TP Sài Gòn. Đích cuối cùng là Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ Tư lệnh Hải quân quân đội Sài Gòn và Dinh Độc lập.
Chiều 27/4/1975, tôi chỉ huy D9 bộ binh lên tăng cường cho E9 tiếp tục đánh chiếm căn cứ Nước Trong. Đến trưa 28.4.1975 quân ta hoàn toàn làm chủ căn cứ Nước Trong. Đây là trận đánh quan trọng góp phần đưa các binh đoàn của ta triệt tiêu sinh lực địch, áp sát Sài Gòn.
Tiếp đó, ngày 29/4/1975, binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 gồm E66, Lữ đoàn xe tăng 203, pháo binh, công binh, đặc công và các binh chủng phục vụ chuẩn bị tiến đánh vào Sài Gòn. 17giờ ngày 29/4/1975, 400 xe của binh đoàn hành quân vào nội đô.
Sáng 30/4/1975, binh đoàn thọc sâu chiến đấu một trận ác liệt tại cầu Sài Gòn, cửa ngõ của nội đô. 11 giờ 30 phút, cờ quân giải phóng tung bay trên nóc dinh Độc Lập báo hiệu phút đầu tiên của hòa bình.
Phạm Xuân Thệ cùng ban chỉ huy E66 bàn phương án đánh vào sài Gòn
Những chuyện bây giờ mới kể
Thưa ông, trong một số tài liệu tổng kết chiến dịch Hồ Chí Minh có ý kiến cho rằng một số trận đánh của ta là không cần thiết, như đánh Xuân Lộc, đánh cầu Rạch Chiếc... thương vong của ta rất nhiều, mà không cần phải chiếm giữ những nơi đó ta vẫn vào Sài Gòn được. Ý kiến ông như thế nào?
Thật ra đây là vấn đề thuộc cấp cao hơn cho ý kiến vì còn nhiều vấn đề tranh cãi do cách nhìn nhận khác nhau trận đánh. Nhưng theo ý riêng của tôi, thì lúc đó, dù có 5 mũi đánh vào Sài Gòn, không mũi này thì mũi kia, song không chỉ huy cánh quân nào chịu "lùi" hay "dừng" nhường cho cánh quân khác vào Sài Gòn. Vì tất cả chiến dịch tập trung vào một mục tiêu là Sài Gòn, cũng là trận quyết chiến cuối cùng để dành toàn thắng. Ai cũng muốn vào Sài Gòn nên bất kỳ gì cản trở cho mũi tấn công của mình là phải đánh chiếm nhằm giải phóng đường tiến quân.
Trung tướng Phạm Xuân Thệ, sinh năm 1947 tại Khả Phong, Kim Bảng, Hà Nam.. Nhập ngũ năm 1967. Trong kháng chiến chống Mỹ, chức vụ, quân hàm cao nhất của ông là Đại úy, Trung đoàn phó E66. Năm 1991, Sư đoàn trưởng F304. Năm 1995, Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 2. Năm 2002, Trung tướng, Tư lệnh Quân khu 1, đến tháng 1/2008 ông nghỉ hưu. Trung tướng Phạm Xuân Thệ được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều huân, huy chương cao quý như Huân chương Chiến công Giải phóng hạng 3, Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, Huy chương Quân kỳ Quyết thắng ..Và tháng 4.2011. ông được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Lúc đó thế lực của ta đều mạnh nhưng sao lại hy sinh nhiều thế ở 2 trận chiến đó?
Ở Xuân Lộc do công tác trinh sát thiếu sót nên không báo cáo đầy đủ hỏa lực địch. Đây là nơi mà cho tới lúc đó tập trung gần như sức mạnh vũ khí của quân đội Sài Gòn và lực lượng quân đội Sài Gòn ở đây thì quyết tâm tử thủ.
Còn trận đánh cầu Rạch Chiếc, theo tôi là quân Sài Gòn đã bị dồn tới đường cùng, bất chấp lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh không được bắn nhau với quân giải phóng. Nên chúng điên cuồng chống trả, quyết giữ cây cầu vào Sài Gòn nên mới xảy ra giao tranh dữ dội ở đây với đơn vị giữ cầu.
Khi ngồi trên chiếc xe Jeep lao vào dinh Độc Lập, khi bước vào phòng khánh tiết để bắt gọn toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, khi áp giải Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh, khi có mặt và giám sát lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc lời tuyên bố đầu hàng...ông có nghĩ lúc đó mình đã trở thành nhân vật gắn với sự kiện lịch sử kết thúc chiến tranh Việt Nam?
Không, lúc đó tôi chẳng nghĩ gì ngoài việc làm đúng nhiệm vụ cấp trên đã quán triệt khi vào chiến dịch. Trong tôi chỉ nghĩ làm sao nhanh nhất đưa được Tổng thống chính quyền Sài Gòn ra Đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân cách mạng.
Chính vì thế mà tôi không ý thức được việc phải giữ lại "vật chứng" là mảnh giấy thảo lời tuyên bố đầu hàng để Tổng thống Dương Văn Minh đọc, gây ra nhiều tranh cãi về sự kiện đó sau này. Vâng, chiều đó tôi đã tắm giặt (sau bao nhiêu ngày không được tắm), mảnh giấy nhét trong túi áo đã bị vò nát.
Ngay cả chiếc xe Jeep chiến lợi phẩm lấy ở sân bay Đà Nẵng, chở Tổng thống Dương Văn Minh ra Đài phát thanh Sài Gòn trưa 30/4/1975, sau đó mang ra Hà Nội, rồi bị hỏng, và thành đống sắt vụn bán phế liệu. Cái trong bảo tàng bây giờ chỉ là xe "phiên bản".
TT Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng tại Đài phát thanh trưa 30/4/1975
Kỷ niệm nào ông nhớ nhất mà bây giờ mới kể vào ngày 30/4/1975?
Một kỷ niệm mà cho tới lúc này tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó tôi lại bị mắng té tát, thậm chí bị dọa đưa ra tòa án binh. Vâng, sau khi đưa Tổng thống chính quyền Sài Gòn trở lại Dinh Độc Lập, thì lúc đó toàn bộ ban chỉ huy, bộ tư lệnh Quân đoàn 2 có mặt gồm các tướng Nguyễn Hữu An, tướng Hoàng Đan, Phó chính ủy Quân đoàn Công Trang.
Phó Chính ủy Công Trang khi thấy tôi đã quát: "Anh ở đâu? Anh ở đơn vị nào? Ai cho phép anh tự ý đưa Tổng thống Dương Văn Minh đến Đài phát thanh? Nếu anh làm sai tôi cách chức anh, bỏ tù anh...". Tôi tức cũng quát lại (vì không biết ông là ai, hồi đó không phải lính nào cũng biết mặt các chỉ huy cấp trên): "Tôi đưa Tổng thống Dương Văn Minh đi đọc tuyên bố đầu hàng, anh làm gì mà nhắng lên". Lúc đó tôi nhìn thấy mặt ông ấy rất tức giận.
May mà có sư trưởng trực tiếp của tôi là Nguyễn Ân (F.304) nói: "Nó là thằng Thệ, E phó E66. Sai đâu để sau. Cho nó về chỉ huy đơn vị". Thế là tôi chạy một mạch ra chiếc xe Jeep, chạy thẳng về đơn vị đang đóng quân ở quân cảng Sài Gòn.
Thế rồi câu chuyện ra sao?
Tối đó, chúng tôi được ăn rất ngon, có thịt gà tươi, rượu champagne, nhưng đêm đó tôi không thể ngủ được dù rất mệt. Tôi nghĩ lại vụ buổi chiều, lo lắng không biết cấp trên xử ra sao. Sáng hôm sau, Sư trưởng Nguyễn Ân cho tôi hay, ban chỉ huy và cấp trên cho ý kiến việc tôi xử lý như vậy rất tốt. Thế là tôi thở phào, yên tâm.
Có một câu nói: "Người lính nào đi qua chiến tranh cũng có một nỗi buồn". Riêng ông có nỗi buồn nào không khi đã gần như đạt được mọi ước mơ của cuộc đời binh nghiệp?
Nỗi buồn trong tôi chính là khi nghĩ về đồng đội. Nghĩ về những trận chiến mà mình chỉ huy đã không tốt để đồng đội thương vong nhiều. Ví dụ như trận Thượng Đức, khi tôi trở lại nơi đây năm 2010, tôi đã cúi đầu tạ lỗi trước vong linh đồng đội hy sinh nơi này.
Trung tướng vừa nhận danh hiệu Anh hùng. Ông thích được gọi là "Tướng trận" hay ..?
Tôi thích được gọi là "Cựu chiến binh". Dù là tướng thì cũng vẫn là người lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.