TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
VÌ SAO KHI TRỊNH HOÀI ĐỨC MẤT, VUA MINH MẠNG CHO BÃI TRIỀU 3 NGÀY
VÌ SAO KHI TRỊNH HOÀI ĐỨC MẤT, VUA MINH MẠNG CHO BÃI TRIỀU 3 NGÀY
NGUỒN: Vanvn- CẬP NHẬT NGÀY: 8 THÁNG HAI, 2024 LÚC 17:25
Mùa đông năm Ất Dậu 1825 – năm Minh Mạng thứ 6, Trịnh Hoài Đức mất, hưởng thọ 61 tuổi. Vua Minh Mạng vô cùng thương tiếc, bãi triều 3 ngày, truy tặng Trịnh Hoài Đức là “Thiếu phó Cần chánh điện Đại học sĩ, tên thụy là Văn Khác”…
Trịnh Hoài Đức còn có tên là An, tự là Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai. Ông là một công thần triều Nguyễn, là nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ 18. Năm lên 10 tuổi thì cha mất, Trịnh Hoài Đức cùng mẹ vào sống ở Gia Định, rồi theo học thầy Võ Trường Toản tại Hòa Hưng (nay thuộc quận 10, thành phố Hồ Chí Minh). Trong số bạn học của ông lúc bấy giờ có Ngô Tùng Châu và Lê Quang Định, về sau cũng đều là công thần của nhà Nguyễn.
Năm Mậu Thân 1788, sau khi đánh lấy được Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Ánh cho mở khoa thi để chọn người giúp việc. Trịnh Hoài Đức đỗ khoa ấy, được bổ nhiệm làm Hàn lâm chế cáo. Năm sau, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện ở Tân Bình, rồi được kiêm làm Điền toán trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định.
Tượng Trịnh Hoài Đức.
Năm 1808, ông được bổ làm Hiệp trấn Gia Định Thành, phụ tá cho Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn. Năm Gia Long thứ 11, tức 1812, Trịnh Hoài Đức về kinh dự lễ Ninh lăng Hiếu khương hoàng hậu. Đến tháng 7, Trịnh Hoài Đức được cử giữ chức Thượng thư bộ Lễ và kiêm việc Khâm thiên giám. Năm 1813, Trịnh Hoài Đức được đổi sang làm Lại bộ Thượng thư và đến năm sau vào làm Hiệp tổng trấn thành Gia Định. Sau khi Tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn về kinh, ông tạm giữ quyền Tổng trấn.
Năm Minh Mạng thứ 1 – 1820, Trịnh Hoài Đức được cử giữ chức quyền tổng trấn thay Nguyễn Văn Nhơn về kinh. Đến mùa hạ cùng năm Trịnh Hoài Đức được vời về kinh giữ chức Thượng thư bộ Lại như trước và sung chức Phó tổng tài ở Quốc sử quán, lĩnh Lại bộ Thượng thư kiêm cả Binh bộ. Trước khi nhận chức, Trịnh Hoài Đức dâng biểu từ chối vì lĩnh nhiều việc quan trọng sợ không làm tròn, nhưng nhà vua không cho. Mùa đông năm 1820, Trịnh Hoài Đức hộ giá ra Bắc tuần, đến khi về ông dâng lên nhà vua hai bộ sách: Lịch Đại kỷ nguyên và Khang Tế lục.
Mùa Thu năm Minh Mạng thứ 4 – 1823, Trịnh Hoài Đức dâng sớ cáo lão và xin được về chốn cũ là Gia Định vì tuổi đã cao và có nhiều bệnh tật. Nhưng nhà vua không muốn để Trịnh Hoài Đức về, bèn sai ngự y trông nom thuốc thang cho ông và ban nhiều sâm, quế để bồi dưỡng sức khỏe. Đến mùa đông năm ấy, Trịnh Hoài Đức lại mạnh khỏe vào bệ kiến tạ ơn vua.
Mùa đông năm Ất Dậu 1825 – năm Minh Mạng thứ 6, Trịnh Hoài Đức mất, hưởng thọ 61 tuổi. Vua Minh Mạng vô cùng thương tiếc, bãi triều 3 ngày, truy tặng Trịnh Hoài Đức là “Thiếu phó Cần chánh điện Đại học sĩ, tên thụy là Văn Khác” và xuống chiếu xuất tiền kho làm ma, đưa linh cữu Trịnh Hoài Đức về an táng tại Gia Định, rồi sai ông Hoàng Miên Hoằng thay mặt đi đưa đám. Khi linh cữu về đến Gia Định thì có cả quan Tổng trấn tả quân Lê Văn Duyệt đến phúng viếng và đưa đến huyệt tại làng Bình Tước thuộc tỉnh Biên Hòa.
Khi sinh thời ở Gia Định, Trịnh Hoài Đức cùng Lê Quang Định và Ngô Nhân Tĩnh đều tụ tập nhau xướng họa mua vui. Văn thơ của ba người nổi danh một thời bấy giờ và hiện nay còn tập Gia Định tam gia thi. Riêng Trịnh Hoài Đức còn có những tập Cấn trai thi tập, Bắc sử thi tập.
Đặc biệt, cuốn Gia Định thông chí của ông đến nay vẫn được xem là những sử liệu có giá trị đối với các nhà nghiên cứu về lịch sử và địa lý của miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm ấy có giá trị về văn học, sử học trong thế kỷ XIX và đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Lời bàn:
Trịnh Hoài Đức được xem như bậc khai quốc công thần, là một trong những trụ cột của triều đình nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX. Trên bước đường công danh, Trịnh Hoài Đức đã lên gần tuyệt đỉnh. Ông là một con người tài đức vẹn toàn, được vua tin yêu, quân thần ngưỡng vọng. Dù ở chức quan cao cực phẩm nhưng Trịnh Hoài Đức vẫn sống giản dị, thanh cao, chỉ biết quên mình lo việc ích nước, lợi dân. Về phương diện văn hóa, Trịnh Hoài Đức là nhà thơ, nhà viết sử lỗi lạc hàng đầu của thời Nguyễn trung hưng. Trịnh Hoài Đức để lại cho hậu thế một kho tàng trước tác đồ sộ gồm thơ văn và nhiều công trình nghiên cứu.
Những thế hệ công dân ở vùng đất Đồng Nai xưa kia và miền Đông Nam bộ ngày nay luôn biết ơn và tự hào về Trịnh Hoài Đức, một tài năng lớn, một nhân cách lớn, danh nhân văn hóa đã góp phần đặt nền móng cho một vùng hào khí Đồng Nai – văn hóa Đồng Nai. Với công lao và tài năng của mình, ông đã được phối thờ trong Văn miếu Trấn Biên. Không những thế, tên tuổi cũng như sự nghiệp to lớn của ông sẽ còn sống mãi trong lòng người dân đất Việt.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.