TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
VĨNH BIỆT NHÀ THƠ CUỐI CÙNG CỦA 'THI NHÂN VIỆT NAM' - XUÂN TÂM
VĨNH BIỆT NHÀ THƠ CUỐI CÙNG CỦA 'THI NHÂN VIỆT NAM' - XUÂN TÂM
Ngày 4-2-2012, nhà thơ Xuân Tâm – người cuối cùng còn lại của “Thi nhân Việt Nam” đã giã biệt cõi dương gian, hưởng thọ 97 tuổi. Lễ viếng nhà thơ Xuân Tâm bắt đầu từ 14g hôm nay 8-2-2012 tại Nhà tang lễ Bệnh viện Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Nhà thơ Xuân Tâm sinh năm 1916 tại Quảng Nam, tên thật là Phan Hạp, được giới thiệu trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” khi còn khá trẻ với tập thơ đầu tay “Lời tim non”.. Thời kháng chiến chống Pháp, ông giữ chức GĐ Sở Ngân khố liên khu V. Năm 1954, tập kết ra Bắc, ông công tác tại Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Thay lời tiễn đưa, xin giới thiệu ba bài thơ phổ biến nhất của nhà thơ Xuân Tâm!
Nghỉ Hè
Sung sướng qúa, giờ cuối cùng đã hết,
Đoàn trai non hớn hở rủ nhau về.
Chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê
Ôi tất cả mùa Xuân trong muà Hạ.
Một nét mặt, trăm tiếng cười rộn rã,
Lời trên môi chen chúc nối nghìn câu.
Chờ đêm nay; sáng sớm bước lên tàu,
Ăn chẳng được, lòng nôn nao khó ngủ.
Trong khoảnh khắc sách, bài là giấy cũ,
Nhớ làm chi. Thầy mẹ đợi, em trông.
Trên đường làng huyết phượng nở thành bông,
Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt.
Kiểm soát kỹ có khi còn thiếu sót;
Rương chật rồi, khó nhốt cả niềm vui.
Tay bắt tay, hồn không chút bùi ngùi,
Các bạn hỡi, trời mai đầy ánh sáng.
Sáng ấy Hội An
Sáng ấy Hội An bừng tỉnh giấc
Thuyền buồm chen chúc rộn bờ sông.
Nguồn đưa thuyền xuống, khoang đầy chât
Đêm mới vừa qua có kẻ mong.
Vòm xanh hừng đỏ vùng Non Nước,
Sao tắt lưng trời, trăng trốn xa.
Bên thềm nhà cỗ bao người đợi,
Bát sứ Giang tây sắp đựng quà.
Cửa Đại êm êm gởi gió về,
Gió thơm mùi biển đến say mê.
Tóc em phơ phất trong làn gió
Mắt sáng tìm ai dọc vĩa hè.
Nhớ những ngày xưa tôi xuống đây,
Cũng thuyền buồm ấy, cũng sông nầy.
Chùa Cầu vẫn gác đôi chàng khỉ,
Mà Hội An rày đã đổi thay.
Nồm sắp lên rồi, mua bán mau,
Thuyền căng buồm chạy ít chờ lâu.
Chuyện còn dang dở chưa trao hết
Xin hẹn ai về nhớ sáng sau.
Từ ngày chị đi xa (Gởi chị B. Canada )
Từ ngày chị đi xa,
Mười mấy lần mai nở,
Chiều chiều chị có nhớ
Khói mái bếp quê nhà ?
Quê nhà cách đại dương
Xa nhau ngàn vạn dặm
Không gian nào ngăn cấm
Gió nồm chở nhớ thương.
Từ ngày chị đi xa
Giòng Thu Bồn êm chảy
Gió vờn ngô trên bãi
Hò hái dâu ngân nga.
Xa cội bao người lo
Quê nhà không sung sướng
Thuyền dong buồm chuyển hướng
Sẽ mang về ấm no.
Giận ai đồn ” tắm máu “
Đưa chị đến trời xa
Chiều chiều chị có nhớ
Khói mái bếp quê nhà.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.