TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
CUỘC ĐẤU TRANH ĐẦU TIÊN ĐÒI LẠI ĐẤT TRONG LỊCH SỬ BANG GIAO VIỆT-TRUNG
CUỘC ĐẤU TRANH ĐẦU TIÊN ĐÒI LẠI ĐẤT TRONG LỊCH SỬ BANG GIAO VIỆT-TRUNG
Hồ Bạch Thảo
(Ask not what your countrycan do for you - ask what you can do for your country.
Xin đừng hỏi Tổ quốc làm gì cho bạn - Hãy hỏi bạn có thể làm gì cho Tổ quốc)
J.F. Kennedy
Lý Nhân Tông là vị Vua giữ ngôi cao lâu dài nhất trong lịch sử nước ta, với 56 năm trị vì, đất nước được thái bình thịnh vượng; lại có các tướng giỏi như Thái phó Lý Đạo Thành, Thái úy Lý Thường Kiệt phụ giúp, lập nên võ công hiển hách, phạt Tống, bình Chiêm; khiến lân bang phải nể sợ. Bấy giờ nước ta bị mất một số đất vào tay nhà Tống; qua tháng năm dài, khi dùng binh đe dọa, khi thư từ ngoại giao, nhà vua kiên trì đòi đất. Có lúc Vua đích thân gửi thư cho Vua Triết Tông nhà Tống, nội dung với lòng thiết tha tấc đất của tổ tiên, có đoạn như sau:
“Tuy những đất này chỉ nhỏ như viên đạn, nhưng rất đau đớn trong lòng, thường không rời trong giấc mộng; thực do tổ tiên thần trước đây giết bắt kẻ tiếm nghịch, xông pha nơi gian nan nguy hiểm, liều chết mới có được. Nay kẻ hậu sinh không thừa kế được tổ tiên, chưa tròn phận sự nơi cương vực, chỉ sống tạm trong khoảnh khắc mà thôi” Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên, quyển 380, năm Nguyên Hựu thứ nhất [1086]
Các bộ sử nước ta thời xưa như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép sự việc thiếu chi tiết, và chỉ chép đến lúc đòi được châu Quảng Nguyên vào năm 1084; nhưng cuộc đấu tranh dành đất thực sự kéo dài đến năm 1088. Nhắm bổ sung và phối kiểm lịch sử, chúng tôi xin sao lục thêm nguyên văn các tư liệu liên quan đến việc đòi đất trong các bộ sử Trung Quốc như Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên của Lý Đào đời Tống và Tống Sử của Thoát Thoát đời Nguyên; rồi xếp thành tiểu mục để độc giả tiện bề tham khảo; các mục như sau:
- Vùng đất bị mất
- Nhà Tống kinh doanh vùng đất mới chiếm, nhưng bị nước Đại Việt gây áp lực.
- Ngoại giao đòi lại đất: các phái đoàn Lý Kế Nguyên, Đào Tông Nguyên.
- Ngoại giao đòi lại đất: các phái đoàn Lương Dụng Luật, Đào Tông Nguyên, Lê Văn Thịnh.
- Tiếp tục ngoại giao đòi đất cùng vụ án Lê Văn Thịnh.
Bài viết dùng nhiều tư liệu làm bằng chứng; để tránh rờm rà, xin chép vắn tắt tên các sách, bản đồ trích dẫn:
Bản đồ Quảng Nam Tây Lộcho đời Bắc Tống: Bản Đồ Q.
Bản đồ Googles: Bản đồ G.
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên: Toàn Thư.
Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, Đào Duy Anh: Đất Việt Nam.
Đất Trung Quốc Giáp Việt Nam Qua Các Đời, Hồ Bạch Thảo: ĐấtTrung Quốc.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục,Quốc sử quán triều Nguyễn:Cương Mục
Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên, Lý Đào:Trường Biên.
Tư Trị Thông Giám, Tư Mã Quang: Tư Trị.
PHẦN 1
Các vùng đất bị mất
Căn cứ vào bức thư của Sứ thần Đại Việt Lê Văn Thịnh gửi cho Ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] Hùng Bản vào vào năm Nguyên Phong thứ 7 [1084], cho biết vùng đất bị mất vào nhà Tống gồm 2 phần: Đất bị Trung Quốc chiếm sau cuộc chiến tranh Lý, Tống; và đất do các Tù trưởng tại biên giới nạp cho nhà Tống.
A. Đất bị chiếm sau cuộc chiến tranh Lý Tống:
Văn bản trong Trường Biên ngày Quí Mão tháng chạp năm Hy Ninh thứ 9 [18/1/1077] cho biết sau cuộc chiến tranh, vua Lý Nhân Tông hứa nạp cho nhà Tống đất 5 châu: Tô, Mậu, Tư Lang, Môn Lạng, Quảng Nguyên.
(納蘇、茂、思琅、門諒、廣源五州之地Trường Biên q. 279)
Tại văn bản ngày Quí Vị tháng 9 năm Nguyên Phong thứ nhất [20/10/1078] xác nhận vua Lý Nhân Tông xin hoàn lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, Môn, cùng huyện Cơ Lang:
(以廣源、蘇茂門等州,及機榔縣還之Trường Biên q.292)
Cả hai văn bản đều chỉ vùng đất nước Đại Việt bị mất sau cuộc chiến tranh Lý Tống, nhưng xét về phương diện địa lý văn bản thứ 2 rõ ràng hơn; xin lần lượt phân tích như sau:
- Văn bản 1 ghi tên 2 châu Tô, Mậu, thực ra chỉ có một châu là Tô Mậu; theo Đất Nước Việt Nam [trang 121], vị trí châu này tại huyện Đình Lập tỉnh Hải Ninh. Trong cuộc chiến tranh Lý Tống viên Tri Khâm châu Lưu Sơ chiêu dụ châu Tô Mậu ra hàng nên được vua Tống ban thưởng:
Trường Biên, quyển 281. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
Ngày Tân Mão tháng 4 [6/5/1077], chiếu ban Tri Khâm châu Tả tàng phó sứ Lưu Sơ, Trại chủ Vĩnh Bình [Bằng Tường thị]Ung châu Cung bị khố phó sứ Dương Nguyên Khanh mỗi người được thăng lên 7 tư; thưởng công chiêu dụ các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu.
- Văn bản 1 ghi châu Môn Lạng, ứng vào văn bản 2 châu Môn và huyện Cơ Lang [Quang Lang](1); hai vùng đất này gần nhau, thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Khởi đầu xâm lăng nước ta, Quách Quì mang đại quân từ trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây, Pingxiang Guangxi](2) vào nước ta, sau khi vượt ải Quyết Lý bèn đánh lấy huyện Cơ Lang và châu Môn:
Quyển 279. Năm Hy Ninh thứ 9 [1077]
Ngày Quí Tỵ [8/1/1077],hôm đó bọn Quách Quì mang quân ra khỏi biên giới, giặc đóng tại ải Quyết Lý, Quì sai Trương Thế Củ đánh, Quì sai bắn bằng nõ mạnh, dùng đao to chém vào mũi voi, voi chạy đạp vào quân địch, đại quân tiến vào, giặc tan bỏ chạy. Quân ta thừa thắng lấy được Cơ Lang; Biệt tướng Khúc Trân lấy được châu Môn; các khe động đều hàng.
- Phần còn lại, trong văn bản 1, ghi 2 châu Tư Lang, Quảng Nguyên; Văn bản 2 chỉ ghi châu Quảng Nguyên mà thôi. Lý do vị trí 2 châu kề cận nhau, sau khi nhà Tống lấy được châu Quảng Nguyên, phát triển thành châu lớn trực thuộc Quảng Nam Tây Lộ, bèn gộp châu Tư Lang vào.
Xét thời xa xưa vùng đất tại biên giới nước ta và Trung Quốc do Tù trưởng thuộc các họ Hoàng, Vi, Nùng, Lưu, Thân vv… cai quản; triều đình hai nước Tống, Lý cai trị theo lối ky my lỏng lẻo, hàng năm chỉ thu thuế, nạp cống mà thôi. Vì thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, nên một số Tù Trưởng có lúc không bằng lòng triều đình nước ta, thì qui phụ Trung Quốc; và ngược lại có khi từ đất Trung Quốc trở về với nước ta.
Đó là trường hợp Nùng Dân Phú Tù trưởng châu Quảng Nguyên, theo nhà Tống từ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2 [977]. Dân Phú tuyên bố rằng y muốn đưa cả châu Thất Nguyên qui phụ Trung Quốc từ thời Nam Hán [917-960], nhưng bị châu Tư Lang che ngăn nên chưa thực hiện được; sự việc được ghi nhận qua văn bản sau đây:
Trường Biên, quyển 18. Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2 [977]
Ngày Canh Thìn tháng giêng [9/2/977], châu Ung [Nam Ninh, Quảng Tây] tâu rằng:
“Tù trưởng man châu Quảng Nguyên Thản Xước Nùng Dân Phú cho rằng thời ngụy Hán [Nam Hán] đặt Thủ lãnh 10 châu, có chiếu sắc đưa cho, muốn đưa châu Thất Nguyên nội phụ để thâu thuế; nhưng man Tư Lang che ngăn, nên không thông. Xin triều đình mang quân tru phạt châu Tư Lang.”
Chiếu ban cho Thản Xước Nùng Dân Phú chức Kiểm hiệu tư không; lệnh Chuyển vận sứ Quảng Châu Từ Đạo gọi đến.”
Văn bản này có thể giúp xác định vị trí các châu: Trước hết là châu Thất Nguyên Cương Mục chú thích: nhà Lý gọi là Thất Nguyên, nhà Lê gọi là Thất Tuyền, nay là huyện Thất Khê [Lạng Sơn]. Phía bắc Thất Khê có huyện Hạ Lang thuộc tỉnh Cao Bằng, Đất Nước Việt Nam(3) xác nhận thời xưa gọi là châu Tư Lang. Châu Tư Lang nằm giữa châu Quảng Nguyên và Thất Tuyền, nên Đất Nước Việt Nam, tại trang 150, ghi châu Quảng Nguyên thuộc trấn Lạng Sơn thời Trần Hồ; vị trí tại phía bắc tỉnh Cao Bằng ngày nay.
Châu Quảng Nguyên theo Tống không lâu, sau đó trở về với nước Đại Việt. Lịch sử ghi nhận, năm 1075 Lưu Kỷ mang 3.000 quân châu Quảng Nguyên đánh phá Ung Châu [Nam Ninh Quảng Tây], bị kẻ nội phản theo Tống là Nùng Trí Hội sai con đánh chặn:
Trường Biên, quyển 263. Năm Hy Ninh thứ 8 [1075]
- Ngày Ất Vị tháng 4 nhuần [21/5/1075],Tri Quế Châu [Quế Lâm] Lưu Di tâu rằng: Lưu Kỷ tạichâu Quảng Nguyên [bắc Cao Bằng]dùng 3.000 quân xâm lược Ung Châu, Nùng Trí Hội tại Qui Hóa châu [Tĩnh Tây thị, Quảng Tây; Jingxi Guangxi](4), sai người con là Tiến An, đánh chặn lập công. Chiếu thư ban cấp cho Trí Hội bổng và tiền.
(知桂州劉彞言,廣源州劉紀帥鄉兵三千侵略邕州,歸化州儂智會率其子進安逆戰有功。詔給智會俸錢)
Hai năm sau, đại binh Trung Quốc do Quách Quì chỉ huy sang nước ta phục thù chiến dịch phạt Tống của Lý Thường Kiệt. Trước khi thọc sâu vào nội địa, Quì đề phòng bị đánh ngang hông, bèn dừng quân tại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây], rồi sai Từ Đạt mang quân đánh Quảng Nguyên. Bấy giờ Lưu Kỷ giữ chức Quan sát sứ châu Quảng Nguyên đánh không nỗi phải xin hàng; do đó đất Quảng Nguyên lại vào tay Trung Quốc. Tư liệu văn bia Quách Quì ghi như sau:
Trường Biên quyển 279. Năm Hy Ninh thứ 9 [1077]
Ngày Bính Tuất tháng chạp [1/1/1077]… Trên mộ bia Quách Quì, Phạm Tổ Vũ(5) chép: “Quách Quì đến châu Tư Minh, cho rằng châu Quảng Nguyên là đất yết hầu quan trọng, binh giáp tinh nhuệ, nếu không chiếm trước, sẽ là mối họa trong tim bụng; Quan sát sứ ngụy Lưu Kỷ là mưu chủ của giặc, không bắt Kỷ thì uy danh quân chưa chấn tác.
Bèn sai Yên Đạt đến đánh khắc phục ngay; phá thành, Kỷ ra hàng.”
B. Đất do các Tù trưởng tại biên giới nước ta giao nạp cho nhà Tống:
Lịch sử ghi nhận 2 vùng đất, đều do người họ Nùng [Nồng] giao nạp; Nùng Trí Hội nạp động Vật Ác, được nhà Tống đổi tên là Thuận An châu; Nùng Tông Đán nạp châu Vật Dương, Tống đổi tên là Qui Hóa châu. Theo bản đồ Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] thời Bắc Tống; vị trí hai châu Thuận An và Qui Hóa hiện nay đều thuộc Tĩnh Tây thị [jingxi Guangxi](6) tỉnh Quảng Tây.
- Thuận An châu: Nùng Tông Đán lúc bấy giờ là một Tù trưởng ương ngạnh, cậy thế trấn giữ một phương biên thùy, nên không hoàn toàn thần phục triều Lý, lại mấy lần mang quân cướp phá Ung Châu. Viên Tri Quế Châu Tiêu Cố, thấy được nhược điểm của y hai phía đều thụ địch, nên tìm cách dụ dỗ con là Nùng Nhật Tân, để khuyên cha ra hàng:
Trường Biên quyển 185. Tống Nhân Tông năm Gia Hựu thứ 2 [1057]
Ngày Giáp Tuất tháng 4 [3/6/1057]Nùng Tông Đán thuộc man Hỏa Động, cùng họ với Trí Cao, chiếm cứ chỗ hiểm, tụ tập dân chúng, mấy lần ra cướp phá. Tri Ung Châu Tiêu Chú muốn mang quân binh tại các động đánh phá; Tri Quế Châu Tiêu Cố một mình xin dùng sắc mệnh chiêu hàng. Chuyển vận sứ Vương Hãn cho rằng Tông Đán giữ chốn núi rừng tre trúc, nếu dùng phục binh thì quân ta vị tất có thể thắng, lại gây nên mối hoạn biên giới. Bèn mang binh đến biên giới, cho người chiêu dụ Nhật Tân, con Tông Đán rằng:
“Cha người bên trong thì cừu thù với Giao Chỉ, phía bên ngoài thì làm mồi cho các quan biên giới được thưởng. Hãy về báo cha người, chọn điều lợi mà làm.”
Do đó cha con Tông Đán đều hàng, phương nam bình yên. Ban cho Tông Đán chức Trung vũ tướng quân, Nhật Tân làm Tam ban phụng chức.
Sau khi được ban chức Trung vũ tướng quân, Tông Đán không cho chức này là to; Vua Tống bèn ban chức Đô Giám Quế Châu. Đây chắc chỉ là loại chức hờ để làm vừa lòng y mà thôi; Quế Châu tức Quế Lâm, thủ phủ Quảng Nam Tây Lộ, thường kiêm coi cả lộ này, vị trí bằng tỉnh Quảng Tây và tỉnh Hải Nam hiện nay; xét về sự nghiệp Tông Đán, chỉ là một Tù trưởng một châu nhỏ tại biên giới, thực sự không thể nắm quyền Đô giám Quế Châu. Văn bản liên quan đến việc ban chức cho Tông Đán như sau:
Trường Biên, quyển 244. Năm Hy Ninh thứ 6 [1073]
Ngày Bính Tý tháng 4 [12/5/1073], ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Câu đường công sự Ôn Cảo tâu:
“Chiếu chỉ bổ Nùng Tông Đán, Nùng Trí Hội làm Tướng quân; vì dân Di không biết chức quan này, muốn xin một chức Cận thượng ban hoặc Phó sứ.”
Chiếu ban cho Tông Đán và Trí Hội đều giữ chức Cung bị khố phó sứ, Tông Đán làm Đô giám Quế Châu, Trí Hội làm Tri Qui Hóa châu.
- Qui hóa châu: Ngoài việc đề cập đến Nùng Tông Đán, văn bản nêu trên còn cho biết Nùng Trí Hội được ban chức Tri châu Qui Hóa. Thêm vào, văn bản đính kèm dưới đây có lời tâu của của ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản xác nhận Nùng Trí Hội qui thuận vào thời Tống Anh Tông Trị Bình [1064-1067], và vị trí địa lý của các châu như Qui Hóa hết sức quan trọng, ngoài việc làm nút chặn nước Đại Việt, còn ngăn sự quấy phá của 9 Đạo Bạch Y thuộc nước Đại Lý [Vân Nam cũ]:
Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]
…….. Ty Kinh Lược Hùng Bản cũng tâu rằng:
“Vào thời Gia Hựu [1056-1059], bọn Nùng Tôn Đán đem động Vật Ác qui phụ, ban tên Thuận An châu; thời Trị Bình [1064-1067]Nùng Trí Hội đem động Vật Dương qui phụ, ban tên là Qui Hóa châu. Nay họ Nùng lãnh các châu huyện trước kia không thuộc Nam Bình [chỉ An Nam]; các châu như như Qui Hóa địa thế thuộc yết hầu khống chế vùng Hữu Giang và các man Đại Lý Cửu Đạo Bạch Y. Xin chiếu chỉ cho Giao Chỉ, hỏi lý do xâm phạm Qui Hóa châu, cùng ra lệnh trả hết người bị bắt, dứt tấm lòng ác chưa nhú lên.”
Với số đất bị mất vừa trình bày, tổ tiên ta đã tranh đấu như thế nào để dành lại, cần tìm hiểu một cách kỹ càng ở phần dưới , để rút ra được bài học thực tiễn cho hiện tại.
PHẦN 2
Nhà Tống kinh doanh vùng đất mới chiếm, nhưng bị nước Đại Việt gây áp lực.
Trình Di tự Chính Thúc [1032-1085], nhà lý học và giáo dục nỗi tiếng thời Bắc Tống ảnh hưởng lớn đến hậu thế; người học chữ Nho thời xưa đều tự nhận là môn đệ, nên thành ngữ có câu “cửa Khổng sân Trình”. Là học giả đối lập với với Thừa tướng Vương An Thạch, người chủ trương xâm lăng nước Đại Việt, nên ông theo dõi khá kỹ về cuộc chiến tranh này.Ông quê tại đất Hà Nam, lời của ông được đệ tử Tô Sung ghi lại trong sách Hà Nam Trình Thị Di Thư [河南程氏遺書], sách này có phần đề cập đến cuộc chiến Việt Trung, tổng kết phía Trung Quốc tổn thất đến 30 vạn người:
Trường Biên quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [22/3/1077]
….Sách Hà Nam Trình thị di thư, Tô Sung chép: “Chính Thúc bàn về sự việc tại An Nam như sau ‘Đương sơ lúc biên giới có việc, không dùng các nơi gần tập hợp cứu viện, tuy bính tướng trải qua lam chướng, triều đình bảo lo lắng cho dân chúng, nhưng không cấp tuất. Lúc này không cứu viện, ứng phó, để cho giặc tung hoành, đánh giết đến mấy vạn. Nay bảo rằng đợi thời, nhưng không đợi đến mùa thu mát mẻ, ngay mùa đông đi vào đất giặc. Lương thực tích trử tại phía bắc lãnh, phải chuyển vận đến phía nam lãnh; vào tháng 7 vận chuyển qua lãnh, bị lam chướng, số người chết đến mấy phần, đến lúc qua biên giới, lương không kế tục mang theo. Vào đến sào huyệt giặc, dùng bè chở 500 quân qua sông, vừa chặt vừa đốt, không phá nỗi mấy trại giặc bằng tre. Rồi chèo bè không trở về để mang thêm quân tiếp cứu, thì số quân qua sông bị giặc bắt giết; quân ta không được cứu, hoặc chết hoặc chạy trốn; cuối cùng không thành công, vùng tranh chấp chỉ có 25 dặm. Lại muốn sang tiếp, nhưng không có thuyền, không có lương cho lính, sự tính toán sai lầm từ trước tới nay chưa từng xãy ra! May mà giặc xin cung thuận, mới có lời để ứng phó; nếu như chúng không chịu thuận, thì lấy gì xử trí đây? Phu vận lương 8 vạn người chết, quân lính 11 vạn lam chướng chết; chỉ còn 2 vạn 8 ngàn trở về, trong đó có nhiều người bị bệnh; số người trước đó bị giặc giết, tất cả không dưới 30 vạn người; sự hôn ám vô mưu đến như vậy là cùng!”
Với số tổn thất lớn như vậy, triều Tống chỉ mong khai thác được nhiều vàng tại châu Quảng Nguyên để dân chúng đỡ ca thán. Bèn ra lệnh mở mang châu này, ngoài việc điều động quân lính đến đồn trú, còn đày các tội nhân từ phía nam sông Hoài [Giang Tô] đến lập nghiệp, nhắm tăng dân số để đủ nhân lực khai thác nhiều mỏ vàng, bạc:
Trường Biên, quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
Ngày Kỷ Mão tháng giêng [23/2/1077], ty Tuyên phủ tâu Quảng Nguyên mới đặt thành châu, đưa quân đến phòng giữ; xin theo lệ các châu Hy, Hà, Nguyên, đày các tội nhân làm lao thành. Chiếu ban từ Hoài xuống phương nam, các tội nhân đều đày tại Quảng Nguyên.
Bọn Quách Quì xin sai Quảng Nam Tây Lộ Đề điểm hình ngục đặt mỏ khai thác vàng, bạc tại châu Quảng Nguyên; được chấp thuận.
Về quân lực, tăng cường thêm 17 chỉ huy(7) quân Uy Quả tinh nhuệ từ các châu phương bắc, như Hồng Châu tại vùng Giang Tây:
Ngày Mậu Ngọ tháng 3 [3/4/1077], mới khắc phục các châu Quảng Nguyên, Tư Lang từ An Nam; xin sai 17 chỉ huy quân Uy Quả từ các vùng như Hồng Châu [Giang Tây]đến phòng thủ. Thiên tử phê:
“Trước đây đã sai Đô đại đề cử Trương Thành Nhất tuyển Sai sử thần cho dạy tại Mã Quân Giáo Đầu; có thể cải sai Nội thị phó đô tri Vương Trung Chính, vẫn cho Trung Chính giữ chức Nhập nội phó đô tri.”
Nhắm củng cố và mở mang, triều đình bổ hàng loạt quan lại đến châu Quảng Nguyên, lúc tới nơi được đặc cách thăng thưởng:
Ngày Nhâm Dần tháng 2 [18/3/1077], chiếu ban Tri châu Quảng Nguyên, Thông phán, Thiêm sự, Phán quan, Kiềm hạt, Đô giám, Giám áp đều được thăng 1 bậc quan, hết nhiệm kỳ thăng 1 nhiệm. Các quan về tham mưu văn phòng, Lục sự tham quân, Phán, Ty, Bạ, Úy, Tri huyện, đến lúc mãn nhiệm kỳ mỗi người đều được ban ơn. Các quan bổ sung như Hộ tào kiêm Lý pháp, Chính nhiếp văn học, Trưởng sử, được ưu đãi thưởng cấp, ban cho tờ khoán sử dụng phương tiện trạm dịch. Nhân thu phục Quảng Nguyên, Cơ [Quang]Lang; người ta sợ đến chỗ đó, nên có đặc ân như vậy.
Châu Quảng Nguyên được tăng quân, tăng dân, bổ thêm quan, lấy thêm đất nội địa sáp nhập vào rồi đổi tên thành Thuận Châu; trở thành châu lớn ngang hàng với Ung Châu [Nam Ninh]. Thuận Châu không còn phụ thuộc vào Ung Châu như các châu nhỏ khác, cho trực tiếp dưới quyền Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây]:
Trường Biên, quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
- Ngày Bính Ngọ [22/3/1077], đổi châu Quảng Nguyên thành Thuận Châu.
(以廣源州為順州)
Triều đình nhà Tống lưu ý chọn viên tướng giỏi là Đào Bật, trấn thủ biên thùy, giữ chức Tri Thuận Châu. Trong cuộc chiến tranh Lý Tống, khi rút quân từ bờ phía bắc sông Cầu trở về nước, tổng chỉ huy Quách Quì chọn Đào Bật cầm quân giữ đoạn hậu, nhờ sự nghiêm cẩn của Bật, nên cuộc rút lui được an toàn. Lúc giữ chức Tri Thuận Châu, thường xuyên bị quân Đại Việt làm áp lực, nhưng Bật đã cố gắng hoàn thành phận sự cho đến chết, công trạng của Bật được chép trong Tống Sử, phần Liệt Truyện, như sau:
Đào Bật tự Thương Ông, người đất Vĩnh Châu….Lúc Quách Quì nam chinh, thuyên chuyển Bật từ Đoàn luyện sứ Khang châu trở lại giữ chức Tri Ung châu [Nam Ninh]. Bấy giờ dân gặp ly loạn, trốn ẩn trong khe núi, Bật điều hàng trăm kỵ binh đến các động tại Tả Giang, dân biết Bật đã trở lại, mang già dắt trẻ trở về. Quì hành quân đến sông Phú Lương [chỉ sông Cầu], giao cho Bật giữ phía sau. Khi người Giao chịu nạp cống, Quì muốn rút quân, nhưng sợ bị tập kích. Bèn lập kế rút về đêm, quân không chỉnh tề nên bộ binh, kỵ binh dẫm đạp vào nhau, rút lui vô trật tự. Giặc ở bên kia sông trinh sát, nhưng biết Bật giữ phía sau, nên không dám truy kích. Bật đích thân hạ lệnh quân dưới quyền không dao động, đợi đến sáng xếp hàng đội đi từ từ; Quì nhờ đó rút lui được an toàn.
Đất chiếm được, đặt châu Thuận và huyện Quang Lang(8), thăng Bật chức Tây thượng các môn sứ, Tri châu Thuận. Châu này cách Ung châu 2.000 lý, nhiều cây cỏ độc, chướng vụ, quân lính chết đến bảy tám phần mười; Bật cũng đau nặng, nhưng không tỏ cho quân biết sự mệt nhọc, xem thường gian khổ, ý khí khích ngang; quân sĩ cảm động, ra sức phấn đấu. Người Giao đánh lấy Quang Lang, thanh ngôn sẽ chiếm châu Thuận, nhưng cảm thấy khó vì Bật chỉ huy nơi này. Bật vốn được lòng người, nên hành động giặc đều biết trước. Bắt được gián điệp không giết, thuyết phục điều phải trái rồi thả cho đi, ân uy đều thi hành, nên suốt đời Bật, giặc không dám phạm. Được thăng chức Đông thượng các môn sứ, nhưng chưa nhận chức thì đã mất….
Dưới quyền chỉ huy của Đào Bật, các mỏ vàng, bạc, chu sa được mở mang khai thác, triều đình ra lệnh cho Quảng Nam Tây lộ đặt cơ quan giao dịch mua bán:
Trường Biên, quyển 281. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
Ngày Bính Dần tháng 3 [11/4/1077], chiếu ban các mỏ vàng, bạc, chu sa tại châu Quảng Nguyên và Điền Nãi; lệnh ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ đặt cơ quan trao đổi giao dịch.
(詔廣源州及填乃等處金銀、硃砂坑冶,令廣南西路經略司興置回易。)
Tham vọng khai thác các mỏ vàng, mỏ bạc tại châu Quảng Nguyên chỉ rầm rộ trong vòng nữa năm thì bị khựng lại. Nguyên do sau khi quân Tống rút lui, bị quân Đại Việt theo bén gót; vào ngày 22 tháng 7 Hy Ninh thứ 10 [13/8/1077] ty Chuyển vận Quảng Tây do thám cho biết quân Đại Việt đang uy hiếp huyện Quang Lang. Vị trí Quang Lang hết sức quan trọng; trong các cuộc xâm lăng nước ta, quân Trung Quốc đều đi qua. Theo Đất Nước Việt Nam [trang 148] chép đời Lý gọi là Quang Lang, đời Trần và thời Minh đô hộ gọi là Khâu Ôn, tương đường với huyện Ôn Châu thời Nguyễn; vị trí dọc theo đường xe lửa từ thị xã Lạng Sơn đến Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng. Vừa mới được báo huyện Quang Lang bị uy hiếp, thì vua Tống lại sửng sốt khi được tin Quang Lang thất thủ, bèn đòi hỏi các yếu nhân đảm nhận trọng trách biên giới Việt Hoa như Triệu Tiết, Lý Bỉnh Nhất, Miêu Thời Trung, phải duyệt lại toàn bộ tình hình, nội dung được phản ảnh qua văn bản dưới đây:
Trường Biên, quyển 283. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
Ngày Canh Ngọ 22 tháng 7 [13/8/1077], ty Chuyển vận Quảng Tây tâu do thám cho biết quân Giao Chỉ hiện ở các nơi ngoài huyện Cơ Lang [Quang Lang]. Chiếu ban:
“Huyện Cơ Lang đã bị giặc Giao Chỉ chiếm cứ, chưa thấy lộ này [lộ Quảng Tây]hợp tác thi thố như thế nảo. Cùng Quyết Lý, châu Thuận xa xôi, có hoặc không thể cố thủ? Làm thế nào để khỏi tổn hại uy tín của nước, cùng binh lực tài phí lâu nay khỏi bị lao tổn. Giao cho Triệu Tiết, Lý Bình Nhất, Miêu Thời Trung cùng thẩm xét chung sự lợi hại, không được suy ủy tránh né, làm lỡ triều đình đại sự một phương. Đợi bàn bạc xong, đích thân viết lời tâu lên.”
Viên Nội điện sùng ban huyện Quang Lang , cùng kẻ dưới quyền bỏ chạy vào nội địa; bị triều đình nhà Tống xử nặng, kẻ thì bị tử hình, kẻ thì bị đày ra ngoài đảo:
Trường Biên, quyển 287. Năm Nguyên Phong thứ nhất [1078]
Ngày Quí Vị [22/2/1078], lệnh chém Nội điện sùng ban huyện Cơ Lang [Quang Lang]Trần Tung phụ trách tuần phòng địa phận, đày Tam ban sai sử Hồ Thanh đến đảo Sa Môn. Bị tội vì tâu sàm rằng giặc đến, vô cớ tự tiện rút chạy bỏ thành trại.
Không riêng gì huyện Quang Lang, ngay tại Thuận châu tức hậu thân của châu Quảng Nguyên; nơi nhà Tống đã lưu ý điều động trọng binh, trong đó có 17 chỉ huy quân tinh nhuệ Uy Quả từ các châu vùng Giang Tây đến đồn trú, cũng bị uy hiếp nặng nề. Vua Tống đành phải điều tiếp quân Đoàn Kết Toàn Tương tại Hồ Nam đến tăng viện:
Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Kỷ Vị tháng tư [24/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng man cướp phá châu Thuận, xin thêm quân. Thiên tử phê:
“Có thể điều động quân Đoàn Kết Toàn Tương tại Đàm Châu [Hồ Nam]tạm thời đóng tại đó; khiến có thể trấn an nhân tâm hai xứ Quảng, không để khiếp sợ. Chờ cho việc biên giới ỗn định thì cho trở về.”
Tình trạng tại châu Thuận trở nên trầm trọng hơn, ngoài việc quân Đại Việt quấy phá từ bên ngoài, lại có nội phản từ bên trong; nên triều đình nhà Tống phải điều binh đến, cùng nhờ các châu, động lân cận cứu viện:
Quyển 298. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Bính Tý tháng 5 [10/6/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Man Thuận Châu phản, Nội điện sùng ban Tri động Cổ Lộng, Linh Sùng Khái dẹp tan được; lại có Tri châu Qui Hóa, Văn tư phó sứ Nùng Trí Hội, suất đinh tráng hơn 1 ngàn 2 trăm người tiếp viện; xin được tưởng thưởng.”
Chiếu thăng Sùng Khái làm Cung bị khố phó sứ; Trí Hội làm Cung uyển phó sứ.
Xét tình hình chung sau khi được tin huyện Quang Lang thất thủ, trong văn bản ngày 22 tháng 7 năm Hy Ninh thứ 10 [13/8/1077] vua Tống Thần Tông đã ra lệnh cho Tri Quế Châu Triệu Tiết, Chuyển vận sứ Quảng Tây Lý Bình Nhất; Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây, Hải Nam] Miêu Thời Trung “cùng thẩm xét chung sự lợi hại” “có hoặc không thể cố thủ” “Đợi bàn bạc xong, đích thân viết lời tâu lên”.
Những lời tâu của 3 viên quan này thuộc loại mật, không thấy ghi lại trong chính sử; tuy nhiên qua sự kiện nêu trong văn bản dưới đây chứng tỏ sau khi tham khảo với các vị quan trực tiếp cai trị Quảng Nam Tây Lộ, Vua Tống đã thay đổi chính sách.Trước đây chủ trương xây dựng châu Thuận mạnh, cho tăng cường nhiều quan, quân; đưa các vùng đất sát biên giới như Cống động, Thuận An châu(9) sáp nhập vào châu này; nay trước áp lực của Đại Việt, triều đình nhà Tống ước tính có thể buộc phải trả đất để hòa giải; bèn đưa các vùng đất trước kia đã cho sáp nhập trả lại cho Ung Châu [Nam Ninh]; để châu Thuận chỉ còn lại đất Quảng Nguyên cũ, trước kia đã lấy từ Đại Việt:
Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Bính Thìn tháng 4 [21/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Các đất như Thuận An Châu, Cống Động trước lệ Ung Châu, mới đây ty Tuyên phủ nhân thu phục Quảng Nguyên cho lệ vào châu Thuận; xin trở lại lệ thuộc theo cũ.”
Ngoài ra nhà cầm quyền Quảng Nam Tây Lộ lại cưỡng ép gần 1 vạn dân từ Thuận châu trở về nội địa với mỹ từ qui minh(10), tức hồ hởi đi theo con đường sáng; nhưng lại lộ liễu ý đồ bằng cách tuyên bố dùng quan lại địa phương để “giác sát”(11) tức kềm kẹp quan sát phát giác kẻ địch trà trộn. Sự việc được tâu trình, triều đình nhà Tống khôn ngoan hơn, bắt bỏ 2 chữ “giác sát”:
Quyển 309. Năm Nguyên Phong thứ 3 [1080]
Ngày Canh Thìn tháng 10 [5/12/1080], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Tri Ung châu An phủ đô giám Lưu Sơ báo về việc dời những người thuộc gia đình qui minh gồm 9.929 người đến các châu động gần, để có thể cưỡng ép. Sai Tả Giang ủy đạo lộ Tuần kiểm Nùng Bảo Phúc, Tri Giang châu Hoàng Thiên Hưng, Hữu Giang ủy Tri Điền châu Hoàng Quang Thiến, Tri Đống châu Hoàng Án Định, lo quản lý giác sát.”
Chấp thuận; lại có chiếu thư bắt bỏ 2 chữ “giác sát”; sợ tổn thương dân qui thuận.
Những vùng đất bị mất vào tay nhà Tống Trung Quốc, giống như cây cọc nhọn đâm vào thân thể nước Đại Việt; nhờ sự phấn đấu không ngừng, cây cọc đã có hiện tượng lung lay. Bước kế tiếp với chính sách lúc cương lúc nhu; triều đình nước ta tìm cách nối lại bang giao, cử các phái đoàn sang Trung Quốc đàm phán, để tìm cách nhổ chiếc cọc này.
PHẦN III
Ngoại giao đòi lại đất: Các phái đoàn Lý Kế Nguyên, Đào Tông Nguyên
Người xưa có câu “Tiên lễ hậu binh”, có ý khuyên dùng nghi lễ ngoại giao trước, nếu không có kết quả mới phải dùng binh. Tuy nhiên cũng có trường hợp ngược lại, đôi khi phải dùng binh biểu dương lực lượng khiến đối phương bối rối, mới đề nghị giải pháp ngoại giao.
Tình hình Trung Quốc vào thời Tống Thần Tông năm Hy Ninh thứ 10 [1077], phía Bắc bị các nước Liêu, Hạ gây áp lực; phía Nam sau khi quân Tống rút, quân Đại Việt theo sau lưng và chiếm lại được huyện Quang Lang. Bấy giờ vua Đại Việt sai Sứ thần Lý Kế Nguyên đến biên giới ngỏ lời xin trả lại đất. Lời yêu cầu đúng lúc, vua Tống cũng muốn giải quyết cho yên việc tại phương Nam, bèn theo lời đề nghị của Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ, hứa trả lại đất sau khi nước Đại Việt trả tù binh bị bắt trước kia tại 3 châu Ung, Khâm, Liêm:
Trường Biên, quyển 285. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]
Ngày Bính Tuất tháng 10 [28/10/1077], ty Kinh lược an phủ Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Người Giao sai bọn Lý Kế Nguyên và quan được sai bàn việc tại biên giới. Muốn ra lệnh quan được sai lấy ân tín của triều đình dụ Càn Đức, lệnh trả lại nhân khẩu đã cướp, rồi cấp cho đất đai.”
Xác minh lời hứa trả lại đất sau khi Đại Việt trả lại tù binh; Vua Tống Thần Tông gửi chiếu thư cho Vua Lý Nhân Tông nước ta, nguyên văn như sau:
“Chiếu thư cho biết rằng:
Khanh được trông coi tại Nam Giao, đời đời nhận tước Vương, nhưng phản bội đức, gian giảo không tuân triều mệnh, trộm gây bạo động tại vùng biên cảnh; bỏ chính sách trung thuận của tổ tiên, phiền triều đình phải cử binh thảo phạt. Khi quân lính thâm nhập, tình thế khẩn trương mới qui thuận; xét về tội lớn, đáng phải truất tước. Nay sai sứ đến cống, dâng lên lời rất cung kính, đọc kỹ nội dung, thấy được sự hối hận. Trẫm trông coi vạn nước, không phân biệt xa gần; chỉ hiềm những dân Khâm châu, Ung châu bị cướp dời đến vùng xa xôi nóng bức, xa quê hương lâu ngày, đợi khi đưa hết về biên giới tỉnh, sẽ đem Quảng Nguyên trả lại Giao Châu.” (Tống Sử quyển 488, Liệt Truyện Giao Chỉ)
Đáp lời, Vua Lý Nhân Tông dâng thư cảm ơn và xin trả lại đất châu Quảng Nguyên và huyện Quang Lang. Huyện Quang Lang tuy đã bị quân Đại Việt chiếm vào năm trước, nhưng tại đây được nhắc lại với dụng ý muốn vua Tống công nhận việc xảy ra là hợp pháp:
Trường Biên, quyển 287. Năm Nguyên Phong thứ nhất [1078]
Ngày Ất Mão tháng Giêng [25/1/1078], Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức dâng biểu rằng:
“Được ơn ban chiếu chấp nhận lời xin của thần; từ nay lại tu chức cống; đã ra lệnh ty An phủ sai người vẽ xác định cương giới, không còn dám xâm phạm. Thần đã phụng chiếu sai người cống sản vật địa phương, xin trả lại các châu huyện Cơ Lang [Quang Lang], Quảng Nguyên.”
Chiếu ban:
“Đợi người tiến phụng đến kinh khuyết, sẽ đem việc biên giới phân xử riêng.”
Cũng cần phải ôn lại trong văn bản ngày 20/10/1078 đề cập tại bài thứ nhất, rằng vua Lý Nhân Tông xin hoàn lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, Môn, cùng huyện Cơ Lang. Nếu so sánh, thì văn bản phía trên thiếu hai châu Môn và Tô Mậu; có thể giải thích rằng châu Môn giáp với huyện Cơ Lang, chắc cùng chung số phận bị Đại Việt đánh chiếm nên không cần nhắc tới. Riêng châu châu Tô Mậu thì Toàn Thư chép rằng vào tháng Giêng năm Mậu Ngọ [28/1/1078], sai Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu và những người các châu ấy bị bắt đi. Sứ bộ Đào Tông Nguyên kế tiếp Lý Kế Nguyên trong việc bang giao.
Gần 2 tháng sau ty chuyển vận Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây], là giới chức tại tỉnh địa đầu biên giới sơ khởi tiếp xúc với sứ bộ Đào Tông Nguyên, nêu lên 3 việc cần triều đình giải quyết gấp, gồm: tờ biểu của Giao Chỉ phạm húy, đòi trả người bị bắt, và hoạch định lại biên giới. Vua Thần Tông muốn giải quyết nhanh nên bỏ qua việc phạm húy; riêng 2 việc còn lại thì quyết định đợi Sứ thần đến sẽ cùng bàn bạc. Ngoài ra nhà Vua lại chấp nhận cho đặt thêm viên Chủ bạ tại trại Thái Bình [Sùng Tả thị, Quảng Tây; Chongzuo, Guangxi], để tiện việc liên lạc với An Nam sau này:
Trường Biên, quyển 287. Năm Nguyên Phong thứ nhất [1078]
Ngày Đinh Dậu tháng Giêng nhuần [8/3/1078], ty Chuyển vận Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Mới đây có 3 việc: trả biểu cho người Giao vì phạm miếu húy 12, đòi trả người bị bắt, đưa người đi Sứ vào cống. Nay người Giao đã tuân sửa; nhưng ty Kinh lược câu đang công sự Dương Nguyên Khanh chưa chịu thu tiếp, sợ trở ngại việc công.”
Chiếu ban:
“Bọn Nguyên Khanh hãy mau nhận biểu, phụ đệ lên để biết; đưa người đi Sứ đến kinh khuyết. Việc hoạch định cương giới, trả lại người, sẽ phân xử riêng.”
Lại tâu:
“Trại Thái Bình [Sùng Tả Thị, Quảng Tây] châu Ung xin theo lệ các vùng duyên biên Thiểm Tây, tăng đặt 1 viên Chủ bạ.”
Nhắm chuẩn bị cho việc trả đất đang điều đình, nhà Tống bèn đưa các vùng đất trước kia đã cho sáp nhập châu Thuận trả lại cho Ung Châu [Nam Ninh]; để châu này chỉ còn lại đất Quảng Nguyên cũ, trước kia đã chiếm từ Đại Việt:
Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Bính Thìn tháng 4 [21/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
“Thuận An châu, các động như Cống Động trước lệ Ung Châu, mới đây ty Tuyên phủ nhân thu phục Quảng Nguyên cho lệ vào châu Thuận; xin trở lại lệ thuộc theo cũ.”
Trong khi đang cố gắng thu xếp giới hạn diện tích châu Thuận tương đương với châu Quảng Nguyên cũ; thì Đại Việt dùng binh gây áp lực. Tại châu Thuận, trước đây đồn trú 17 chỉ huy(13) quân tinh nhuệ Uy Quả cũng bị uy hiếp nặng nề, khiến vua Tống đành phải điều tiếp quân Đoàn Kết Toàn Tương tại Hồ Nam đến tăng viện:
Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Kỷ Vị [24/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng man cướp phá châu Thuận, xin thêm quân. Thiên tử phê:
“Có thể điều động quân Đoàn Kết Binh Toàn Tương tại Đàm Châu [Hồ Nam] tạm thời đóng tại đó; khiến có thể trấn an nhân tâm hai xứ Quảng, không để khiếp sợ. Chờ cho việc biên giới ổn định thì cho trở về.”
Phái đoàn Đào Tông Nguyên phải chờ đợi tại kinh sư trong mấy tháng, đến ngày 9/11/1079 Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng Giao Chỉ đã trả lại 221 người bị bắt, tuy không đủ số lượng đòi hỏi, triều đình nhà Tống cũng miễn cưỡng trao trả đất Thuận Châu:
Quyển 300. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]
Ngày Mậu Thân tháng 10 [9/11/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu Giao Chỉ trả 221 người bị bắt, chiếu cho thâu nạp; bỏ Thuận Châu, đưa đất này cho Giao Chỉ.
Trước đây Càn Đức [Vua Lý Nhân Tông] sai Sứ đến cống và xin các châu như Quảng Nguyên; Tri Quế Châu Triệu Tiết xin lưu lại không cho, hàng năm đóng quân 3.000, thì 10 phần chết mất 6,7, giữ không được. Thiên tử bảo:
“Càn Đức phản nghịch tác loạn nên mang quân thảo phạt; bọn Quì không tru diệt được, gần thành công rồi phải trở về. Nay châu Thuận là đất xa xôi lam chướng, triều đình chiếm được cũng chưa có lợi, há lại xua đuổi quân lính đến nơi chướng độc! Một người lính không yên trẫm cũng lấy làm thương xót, huống gì 10 người mà chết mất 5,6 ư!”
Tống Sử vạch rõ rằng vua Lý Nhân Tông hứa trả 1.000 quan lại bị bắt tại 3 châu Ung, Khâm, Liêm; nhưng thực sự chỉ trả 221 người dân, lại bị khắc chữ trên mặt và tay; đổi lại, nhà Tống tuyên bố trả hết 4 châu 1 huyện. Theo các văn bản đã được đề cập, 4 châu chỉ Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Tô Mậu, 1 huyện tức Quang Lang; nhưng châu Quảng Nguyên nhà Tống không thực sự trả hết, khiến triều đình ta phải tiếp tục đòi hỏi sau này:
Tống Sử quyển 488, Liệt Truyện Giao Chỉ
Càn Đức lúc đầu hứatrả về 1. 000 quan lại thuộc 3 châu, chờ lâu mới đưa về 221 người dân, con trai trên 15 đều bị khắc vào trán hàng chữ “Thiên tử binh”, trên 20 tuổi khắc “Đầu [đầu hàng] Nam triều”, phụ nữ bị khắc vào tay trái “Quan khách”. Dùng thuyền chở về, nhưng dùng bùn bịt kín các cửa, ở trong thắp đèn; ngày đi được 1, 2 chục lý thì dừng, nhưng giả bộ đánh trống điểm canh để báo, mất mấy tháng trời mới đến được, tỏ cho biết thuỷ trình xa xôi. Châu Thuận sâu vào phía Nam, đặt quân trấn thủ; do chướng lệ nhiều người bị bệnh chết, Đào Bật cũng chết trong quân. Triều đình biết là vô dụng, đem tất cả 4 châu 1 huyện trả lại; nhưng Quảng Nguyên từ lâu do châu Ung ky my, vốn không phải thuộc quyền sở hữu của Giao Chỉ.
Vùng đất Quảng Nguyên nhà Tống đã đổ ra nhiều công sức để đầu tư khai thác các mỏ vàng bạc, cuối cùng trở về với nước Đại Việt. Dân Trung Quốc bị đày tại đó chết đến 5,6 phần 10; nên không khỏi oán hận, có thơ mỉa mai rằng “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim” (Vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng Nguyên).
PHẦN IV
Ngoại giao đòi lại đất: các phái đoàn Lương Dụng Luật, Đào Tông Nguyên, Lê Văn Thịnh
Về việc nhà Tống trả đất cho nước Đại Việt vào năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]; chính sử Trung Quốc như Tống Sử(14) chép “bèn đem tất cả 4 châu 1 huyện trả lại 乃悉以四州一縣還之”, Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên(15)ghi“bỏ Thuận Châu, đưa đất này cho Giao Chỉ 廢順州,以其地畀交阯. Nhưng dân và triều đình Đại Việt không tin những lời tuyên bố huyênh hoang; “kẻ nằm trong chăn biết có rận”, cẩn thận xét nghiệm thấy việc trả như vậy là chưa đủ, bèn tiếp tục đòi hỏi. Cuối cùng vua Tống đành phải chấp nhận cho xét lại; lệnh đặt nơi bàn bạc về biên giới, đích thân đặt tên là Kế nghị biện chính cương chí sở 『計議辦正疆至所』(Nơi bàn bạc sửa lại đúng cương giới).
Mở đầu cho cuộc đòi hỏi này Vua Lý Nhân Tông cử một phái đoàn sang Trung Quốc, do Lễ tân phó sứ Lương Dụng Luật cầm đầu, mang nhiều vật cống. Không muốn đồ vật bị thất lạc, nhà Vua yêu cầu được chở đi kèm để phái đoàn có thể giám sát; Vua Tống không những chấp nhận lời yêu cầu, lại cho một viên quan làm bạn tống hướng dẫn:
Trường Biên, quyển 313. Năm Nguyên Phong thứ 4 [1081]
Ngày Nhâm Ngọ tháng 6 [4/8/1081], Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức dâng biểu tâu:
“Mới đây sai Sứ thần Đào Tông Nguyên đến triều cống, bị Quảng Châu [Quảng Đông]ngăn cấm, không cho đồ vận tải cùng đi theo. Nay sai Lễ tân phó sứ Lương Dụng Luật, bọn Trước tác lang Nguyễn Văn Bồi vào cống, xin triều đình ban chiếu chỉ cho tiến phụng giống như cũ”.
Chiếu ban cho Quảng Châu chuẩn theo lệ cũ, không được cản trở. Sai 1 viên Nội sứ thần bạn tống, lại giáng chiếu dụ cho biết trước.
Qua 1 tháng sau phái đoàn đến quan ải, ty Chuyển vận sứ Quảng Nam Đông Lộ [Quảng Đông] tâu về triều, cẩn thận hỏi về đường đi của sứ bộ, Vua Tống trả lời rằng muốn đi đường thủy cũng chấp nhận:
Trường Biên, quyển 314. Năm Nguyên Phong thứ 4 [1081]
Ngày Canh Tuất tháng 7 [1/9/1081], ty Chuyển vận Quảng Nam Đông Lộ tâu:
“Cửa quan Tây Lộ báo người Giao vào cống, xin ra lệnh theo đường Kinh Hồ [Hồ Nam, Hồ Bắc]”
Chiếu ban:
“Người Giao như muốn theo đường thủy đến kinh khuyết, lệnh Quảng Tây kinh lộ chỉ huy; nên y theo đường cũ, không phải thay đổi.”
Trái với thường lệ, lần này sứ bộ tăng thêm 56 người; quan địa phương tỉnh Quảng Tây lại phải gửi văn thư tâu lên; Vua Tống chấp nhận số lượng mới 156 người:
Trường Biên, quyển 315. Năm Nguyên Phong thứ 4 [1081]
Ngày Canh Ngọ tháng 8 [21/9/1081], ty Kinh lược Quảng Tây tâu:
“Giao Chỉ vào cống gồm 156 người, so theo qui chế cũ tăng 56 người; Thiên tử phê:
“Nên ra lệnh bây giờ cho số lượng đó đến kinh khuyết; từ nay trở về sau chấp thuận như vậy.”
Phái bộ Lương Dụng Luật dâng vật cống rất hậu hĩ, trong đó có 50 sừng tê ngưu(16), 50 ngà voi; kèm theo yêu cầu trả lại động Cổ Đán do Nùng Dũng trước đó giao nạp. Triều đình nhà Tống không chấp nhận, viện cớ rằng Nùng Dũng đã theo Tống trước khi cuộc chiến tranh Lý Tống xảy ra, động Cổ Đán coi như là đất nội địa:
Trường Biên, quyển 327. Năm Nguyên Phong thứ 5 [1082]
Ngày Nhâm Thân tháng 6 [20/7/1082], Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức hiến sừng tê ngưu thuần ngà voi mỗi thứ số lượng 50; lại tâu:
“Nùng Dũng Thủ lĩnh động Cổ Đản do châu Quảng Nguyên cai quản mang cả dân động phản, nhập vào Ung Châu; mấy lần gửi thông điệp cho Ung Châu, nhưng không thi hành”.
Chiếu ban:
“Nùng Dũng vốn không do Giao Chỉ quản lý, theo triều đình trước khi Giao Chỉ xin hàng, là đất thuộc tỉnh Trung Quốc, theo lý khó mà cấp hoàn lại”.
Tuy nhiên Sứ bộ Lương Dụng Luật đã thành công trong việc đòi hỏi nhà Tống xét lại về biên giới, vua Tống chấp nhận lập Kế Nghị Biện Chính Cương Chí Sở[nơi bàn bạc sửa lại đúng cương giới] tại trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây; Pingxiang Guangxi]. Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản được lệnh sai quan đến chờ sẵn tại biên giới để cùng Sứ thần Đại Việt thương nghị:
Trường Biên, quyển 335. Năm Nguyên Phong thứ 6 [1083]
Ngày Mậu Thân tháng 6 [21/6/1083], Kinh lược sứ Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản lại tâu:
“Đã sai Đề cử Tả Giang đô tuần kiểm Cung phụng quan Cáp môn chi hầu Thành Trác cùng Giám trấn nãi kim khanh Triều phụng lang Đặng Khuyết cùng đến trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây]hẹn với An Nam định biên giới, y theo chiếu đặt tên ‘Kế Nghị Biện Chính Cương Chí Sở’ [nơi bàn bạc sửa lại đúng cương giới].”
Rút kinh nghiệm những lần thương lượng trước, sách lược của Đại Việt nhu kèm theo cương; nhà Tống lo Đại Việt sẽ tìm cách gây hấn để thúc đẩy đàm phán, nên tránh đặt những viên quan như Tri Khâm Châu Ôn Cảo, từng gây ác cảm với Đại Việt tại biên giới:
Trường Biên, quyển 331. Năm Nguyên Phong thứ 5 [1082]
Ngày Đinh Vị mồng một tháng 12 [22/12/1082], Chuyển vận phó sứ Quảng Tây, Ngô Tiềm, tâu:
“Gần đây sai Ôn Cảo làm Tri Khâm Châu; trộm nghe rằng giặc Giao Chỉ giận nghiến răng muốn ăn thịt Cảo; Cảo đến đó vạn nhất sẽ sinh cướp phá”.
Thiên tử phê:
“Cảo tư chất tốt, nhưng có hiềm khích với người Giao, thực không nên ở nơi cực biên quan trọng; có thể sai viên Kiềm hạt Lưu Hy tại lộ này kiêm Tri Khâm Châu”.
Theo văn bản ngày 21/6/1083 đã dẫn, nhà Tống sai“Đề cử Tả Giang đô tuần kiểm Cung phụng quan Cáp môn chi hầu Thành Trác cùng Giám trấn nãi kim khanh Triều phụng lang Đặng Khuyết cùng đến trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị] hẹn với An Nam định biên giới”. Phía Đại Việt, Sứ thần Đào Tông Nguyên giữ chức trưởng phái đoàn lần thứ hai. Sau khi thương lượng với đại biểu Tống không có kết quả, Tông Nguyên không tuân theo lời áp đặt của quan lại Tống; tự viết tấu chương về biên giới theo quan điểm của Đại Việt, trao cho Sứ thần đối phương rồi trở về nước. Vua Tống thấy tình hình găng, hạ lệnh điều nào có thể chấp nhận được thì chấp nhận, điều nào khó khăn thì đem ra thương lượng, nhắm kết thúc không để dây dưa:
Trường Biên, quyển 339. Năm Nguyên Phong thứ 6 [1083]
Ngày Ất Tỵ tháng 9 [16/10/1083], ty Kinh lược Quảng Tây tâu:
“Câu đang công sự Đàm Thiểm tâu: ‘Bọn Đào Tông Nguyên xưng rằng về thước tấc đất Quảng Nguyên khó mà bàn phân chia ra; muốn tự viết chương tấu dâng lên để triều đình giải quyết đúng hay sai.’ Tông Nguyên không tuân mệnh, hiện đã trở về An Nam”.
Chiếu ban:
“Hùng Bản chỉ huy các quan bàn nghị, khi cùng với Đào Tông Nguyên nghị bàn, đã tỏ tường những lời trong văn tự triều đình ban cho, hãy chấp nhận việc hợp đạo lý, đưa những điều khó khăn ra thương lượng, không để lưu liên xúc bách, khiến dân man tỏ ý kinh nhờn”.
Sau khi sứ bộ Đào Tông Nguyên bỏ hội đàm trở về nước, tình hình trở nên căng thẳng, Đại Việt điều binh đánh Qui Hóa châu, đòi bắt Nùng Trí Hội; y nguyên là Tù trưởng Đại Việt, trước kia đem Qui Hóa nạp cho nhà Tống. Triều thần nhà Tống giải quyết bằng cách đem Nùng Trí Hội vào nội địa lánh mặt; cử một viên chức khác coi giữ Qui Hóa:
Trường Biên, quyển 341. Năm Nguyên Phong thứ 6 [1083]
Ngày Ất Vị tháng Chạp [3/2/1084], ty Kinh lược Quảng Tây tâu:
“Qui Hóa châu tâu Giao Chỉ tụ binh, muốn chiếm châu. Người Giao rêu rao truy bắt Nùng Trí Hội, xâm phạm Qui Hóa; nay tuy đã rút trở về sào huyệt, nhưng vẫn thường có ý dòm ngó. Nay Trí Hội bảo rằng: ‘Nếu như Giao Chỉ xâm phạm một lần nữa, bản châu khó mà chống cự; xin vào đất trong tỉnh.’ Trí Hội thiếu vững tâm chống cự Giao Chỉ, nếu còn ở tại Qui Hóa, không khỏi bị giặc cướp phá”.
Chiếu ban Hùng Bản dụ Trí Hội khúc chiết việc đi vào nội địa, cân nhắc giao phó người coi giữ các ải quan trọng tại Qui Hóa; nếu như Giao Chỉ đến, tức vô cớ vào đất nội địa, có thể gửi thông điệp hỏi tội.
Ngoài việc đưa Nùng Trí Hội vào nội địa, Kinh lược Quảng Tây Hùng Bản sai Sứ đến biên giới thu xếp với Đại Việt ngừng gây hấn, cho người đến biên giới bàn lại về ranh giới; một mặt đề nghị với triều đình trả lại cho Đại Việt 8 động:
Trường Biên, quyển 346. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]
Ngày 4 Nhâm Thân tháng 6 [9/7/1084]… Trước đây Quách Quì đánh dẹp An Nam, dùng quận Quảng Nguyên làm Thuận Châu; triều đình cho rằng không đáng để lấy, chiếu ban cho Lý Càn Đức. Nhưng hoạch định cương giới chưa rõ ràng, người Giao lại dòm ngó hấn khích tại Nghi Châu, muốn lấy đất Vật Dương của Nùng Trí Hội, bèn đánh Qui Hóa, đuổi Nùng Trí Hội. Trí Hội chạy đến Hữu Giang xin quân. Hùng Bản sai Sứ hỏi sự việc, người Giao bèn rút quân, Càn Đức tạ tội; Bản xin ban cho An Nam 8 động tại Túc Tang, chỗ này đất xấu cỏ không mọc; miền lãnh biển (17)do đó được yên.
Đáp lại yêu cầu của nhà Tống mở hội đàm tiếp, người cầm đầu Sứ bộ Đại Việt lần này là danh sĩ Lê Văn Thịnh, đậu thủ khoa đầu tiên dưới triều Lý vào năm Thái Ninh thứ 4 [1075](18), phụ tá là Nguyễn Bồi. Phía Tống, Cung phụng quan Cáp môn chi hầu Thành Trác cầm đầu, Đặng Tích làm phụ tá; nơi hội đàm vẫn là Kế Nghị Biện Chính Cương Chí Sở tại trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây]. Ngoài ra Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản tại Quế Lâm, giữ nhiệm vụ trung gian giữa triều đình và phái đoàn Kế Nghị Biện Chính.
Lập trường của phía Tống nêu trong cuộc hội đàm như sau:
‘Những vùng đất mới đây Vương sư chiếm được đáng trả lại; còn những đất do quan lại [An Nam]mang đi qui minh (19), thì khó mà trả lại.
(『昨王師所取者當還,其守吏挈而歸明者難復也。』
Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084])
“Những vùng đất mới đây Vương sư chiếm được” chỉ những đất nhà Tống chiếm được trong cuộc chiến tranh Lý Tống; cụ thể là phần còn lại của châu Quảng Nguyên. Còn đất do “quan lại mang đi qui minh” là đất do các Tù trưởng họ Nùng nạp cho nhà Tống. Kinh lược sứ Hùng Bản nêu lai lịch những vùng đất này như sau:
Vào thời Gia Hựu [1056-1059], bọn Nùng Tôn Đán đem động Vật Ác qui phụ, ban tên Thuận An châu; thời Trị Bình [1064-1067]Nùng Trí Hội đem động Vật Dương qui phụ, ban tên là Qui Hóa châu (20).
(嘉祐中,儂宗旦以勿惡等峒歸明,賜名順安州。治平中,儂智會以勿陽峒歸明,賜名歸化州。Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084])
Phía Đại Việt, Lê Văn Thịnh lập luận rằng những kẻ theo nhà Tống mang đất hiến, giống như tên trộm lấy vật của chủ mang đi; các động Vật Dương, Vật Ác đều coi như những tang vật ăn trộm, đáng phải hoàn lại chủ cũ:
Văn Thịnh lập luận rằng: “Đất đai thuộc quyền sở hữu của chủ [Đại Việt], viên quan lại mang đất đi, là ăn trộm vật của chủ mang đi; chủ phải giữ tang vật của kẻ trộm, kẻ ăn trộm mang tang vật đi, pháp luật không cho phép, huống lại làm dơ đến đất đai tỉnh nội địa”.
Lập luận của Sứ thần Lê Văn Thịnh rất sắc bén, nhưng không hiểu tại sao sau đó ông lại đổi sách lược, tỏ ra nhượng bộ; trong thư gửi cho Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ có đoạn như sau:
Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]
Vào năm này, Thành Trác, Đặng Tịch cùng Sứ giả Nam Bình Lê Văn Thịnh, Nguyễn Bồi hội đàm, y như chiếu thư vào ngày Kỷ Tỵ tháng 10. Còn Lê Văn Thịnh gửi thư cho Hùng Bản rằng:
“Thành Trác nói: ‘Thượng Điện, Hạ Lôi, Ôn, Nhuận, Anh, Giao, Vật Dương, Vật Ác, Kế, Thành, Cống, Lục, Tần, Nhiệm Động, Cảnh Tư, Hà Kỷ huyện, gồm 18 xứ (21) thuộc đất tỉnh nội địa, biên giới tại phía nam. Tiểu tử Bồi thần nghe theo mệnh, không dám tranh chấp…
Sử nước ta Cương Mục cho rằng Lê Văn Thịnh giữ thái độ mềm dẻo, đã lấy được một số đất, Cương Mục chép như sau:
(Giáp Tí, năm thứ 9 (1084). (Tống, năm Nguyên Phong thứ 7).
Tháng 6, mùa Hạ. Sai Lê Văn Thịnh sang bên Tống, bàn định việc cương giới. Bấy giờ, bờ cõi giữa nước ta và nhà Tống chưa được ngã ngũ. Nhà vua sai Binh Bộ thị lang Lê Văn Thịnh sang Tống để hội nghị, nhà Tống trả lại ta 6 huyện và 3 động.
Theo Danh tiết lục của Trần Ký Đằng, Lê Văn Thịnh sang Quảng Tây, hội nghị với tuần kiểm ti nhà Tống, là Thành Trác. Văn Thịnh thường giữ thái độ mềm dẻo, từ từ lấy lý lẽ mà giải thích, và nói "kẻ bồi thần này không dám tranh giành". Vua Tống khen là biết cung kính, biết lẽ phải, bèn hạ chiếu trả lại cho ta 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang).
Hoặc giả Sứ thần Lê Văn Thịnh xét tình hình bấy giờ, thấy rằng phía nhà Tống không thể nhượng bộ thêm, nên thỏa hiệp chăng? Riêng câu nói “Tiểu tử Bồi thần nghe theo mệnh, không dám tranh chấp 陪臣小子惟命是聽,不敢爭執”; người viết trộm nghĩ rằng dù khéo nói đến đâu cũng không nên nói như vậy; vì tranh chấp là sứ mệnh của Sứ thần đàm phán!
Lời nói của Lê Văn Thịnh coi như phá vỡ bế tắc, Kinh lược Hùng Bản báo về triều, Vua Tống ban chiếu trả lại đất đã lấy trong cuộc chiến tranh Lý Tống cho Đại Việt, riêng phần đất do những người họ Nùng nạp cho Tống trước kia thì không trả:
Trường Biên, quyển 348. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]
Ngày Mậu Tý 21 tháng 8 [23/9/1084], bàn về cải chính biên giới An Nam, Thành Trác tâu đã cùng bọn Lê Văn Thịnh cải chính, xin giảng chiếu ban cho An Nam. Chiếu ban Hùng Bản để hỏi Thành Trác:
“Qua thông điệp cùng đích thân Lê Văn Thịnh nói rằng không dám tranh chiếm những châu động do Nùng Trí Hội, Nùng Tôn Đán nạp; có thể dựa vào đó mà ban chiếu cho An Nam không?”.
Hùng Bản tâu:
“Thành Trác căn cứ vào lời Lê Văn Thịnh nói: ‘Như Thành Trác bàn, tại phía nam các động Vật Dương, Thuận An hoạch định biên giới, Bồi thần không dám tranh chấp; như vậy việc cải chính biên giới đã có bằng cớ rõ”.
Chiếu ban cho Giao Chỉ 8 xứ huyện, động ngoài ải; lại ban cho Sứ thần và Phó đại y phục, Lê Văn Thịnh 500 bộ, Nguyễn Bồi 300 bộ.
Với nội dung tương tự như văn bản nêu trên, Vua Tống Thần Tông chính thức gửi chiếu thư cho Vua Lý Nhân Tông nước Đại Việt như sau:
Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]
Ngày Mậu Tý tháng 10 [22/11/1084], sắc Giao Chỉ Quận vương Càn Đức biết:
“Ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:
‘Mới đây được triều mệnh về việc An Nam tâu rằng các châu động thuộc khe động Vật Dương, Vật Ác, cương giới chưa rõ ràng. Lệnh bản ty hội bàn với bản đạo sai quan biện chính. Nay chuẩn cho An Nam sai bọn Lê Văn Thịnh đến, biên giới đã được biện chính; xin giảng chiếu chỉ để An Nam tuân theo’.
Xem các tờ tâu trước kia trình bày về biên giới, đặc mệnh các quan tại biên giới bàn bạc biện chính. Khanh vốn được ân sủng tước lộc, đời đời trung thuần; hãy khâm phụng chiếu chỉ, thân sức các quan dưới quyền, phân hoạch châu động, đầu đuôi đã rõ ràng: Hai động Vật Dương, Vật Ác đã đặt chỉ huy coi sóc; dùng 8 ải sau đây làm biên giới: Canh Kiệm, Khâu Cự, Khiếu Nhạc, Thông Khoáng, Canh Nghiễm, Đốn Lợi, Đa Nhân, Câu Nan. Ngoài biên giới có 6 huyện: Bảo, Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng; 2 động Túc, Tang, giao cho khanh lãnh làm chủ. Khanh hãy thể theo lòng quyến luyến, càng ôm lòng cung thuận, cẩn thận tuân theo giao ước, chớ dung túng xâm lấn”.
Chiếu thư của vua Tống xác định “Hai động Vật Dương, Vật Ác đã đặt chỉ huy coi sóc”, tức do nhà Tống cho đóng quân cai trị.Lịch sử ghi nhận 2 vùng đất, đều do người họ Nùng giao nạp; Nùng Trí Hội nạp động Vật Ác, được nhà Tống đổi tên là Thuận An châu; Nùng Tông Đán nạp châu Vật Dương, Tống đổi tên là Qui Hóa châu; theo bản đồ Quảng Nam Tây Lộ thời Bắc Tống; vị trí hai châu Thuận An và Qui Hóa hiện nay đều thuộc Tĩnh Tây thị [jingxi Guangxi] tỉnh Quảng Tây. Về phần đất dành cho Đại Việt, chiếu thư ghi như sau: “Ngoài biên giới có 6 huyện: Bảo, Lạc, Luyện, Miêu, Đinh, Phóng; 2 động Túc, Tang, giao cho khanh lãnh làm chủ”; tra cứu về 6 huyện, 2 động hiện nay, chỉ biết chắc rằng Bảo, Lạc tức huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Các địa danh Tĩnh Tây thị [Jingxi Guangxi], Bảo Lạc; có thể tìm thấy trên bản đồ Googles hiện nay.
PHẦN 5
Tiếp tục ngoại giao đòi đất cùng vụ án Lê Văn Thịnh
Theo Toàn Thư Lê Văn Thịnh được thăng chức Thái sư vào năm Quảng Hựu thứ nhất [1085]; Thái sư là chức quan cao nhất dưới thời quân chủ; thăng sau lúc đi sứ về; chứng tỏ vua Lý Nhân Tông thưởng cho Văn Thịnh vì có công trong việc dành lại đất. Tuy nhiên nhà Vua vẫn chưa hài lòng việc nhà Tống không chịu trả lại các động Vật Dương, Vật Ác(22); nên vẫn tiếp tục liên lạc ngoại giao đòi hỏi. Vua Triết Tông lấy cớ mới lên ngôi, phải tuân theo mệnh của vua cha không thể sửa đổi, bèn từ chối:
Trường Biên, quyển 357. Năm Nguyên Phong thứ 8 [1085]
Ngày Bính Tuất tháng 6 [18/7/1085], ban cho Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức chiếu rằng:
“Tỉnh dâng biểu trình bày về cương giới các động Vật Dương, Vật Ác; đã hiểu rõ. Khanh trước kia thời Tiên đế [Thần Tông]mấy lần tự thuật về biên cương; đã giảng chiếu dụ đầu đuôi rất rõ ràng, đặc cách xét theo lời yêu cầu, cắt đất ban cho. Nay chợt xem lời tâu, lại còn phân trần. Trẫm vừa thừa mệnh, cần tuân theo liệt thánh trước, mệnh đã định, về đạo nghĩa khó mà sửa đổi. Nên gắng lòng trung, tuân theo chiếu chỉ trước.”
Do Càn Đức dâng thư, xin sắc ban cho các động Vật Dương, Vật Ác; Khu mật viện tâu nên giảng chiếu thuật lại chiếu chỉ triều trước, lệnh Càn Đức tuân theo.
Vua Lý Nhân Tông nước ta không bằng lòng lập luận vua Triết Tông nhà Tống cho rằng đã hoàn thành việc trao trả đất. Qua thư gửi cho Vua Tống, với lời lẽ thống thiết nhà Vua trình bày công lao của tổ tiên xông pha nơi gian lao nguy hiểm mới có được các động Vật Dương, Vật Ác, chẳng may kẻ dưới làm phản mang đất nạp, nên cương quyết đòi trả:
Trường Biên quyển 380. Tống Triết Tông năm Nguyên Hựu thứ nhất [1086]
Ngày Nhâm Tý tháng 6 [8/8/1086], Giao Chỉ Quận vương Lý Càn Đức tâu:
“Ấp của kẻ dưới có 2 động Vật Dương, Vật Ác, 8 huyện tiếp giáp với tỉnh nội địa; trước sau bị kẻ giữ đất làm phản, đem thân qui thuận. Vật Dương vào năm Bính Thìn [1076] bị thu vào đất tỉnh, Vật Ác vào năm Nhâm Tuất [1082] bị thu, lập ải Thông Khang. Tuy những đất này chỉ nhỏ như viên đạn, nhưng rất đau đớn trong lòng, thường không rời trong giấc mộng; thực do tổ tiên thần trước đây giết, bắt kẻ tiếm nghịch, xông pha nơi gian nan nguy hiểm, liều chết mới có được. Nay kẻ hậu sinh không thừa kế được tổ tiên, chưa tròn phận sự nơi cương vực, chỉ sống tạm trong khoảnh khắc mà thôi. Vào năm Giáp Tý [1084], ty Kinh lược Quảng Tây từng đem sự việc tâu lên triều trước [Thần Tông], bèn đem 2 động Túc, Tang , 6 huyện cho thần quản lãnh. Xét Túc, Tang hiện thuộc ấp của kẻ dưới; không phải là đất thỉnh cầu ngày nay, nên không dám bái mệnh. Nay gặp lúc Bệ hạ canh tân trong nước, cẩn thận dâng biểu tâu lên trình bày sự việc.”
Chiếu thư đáp:
“Trước đây quan tại biên giới tâu, viên Thủ lãnh [chỉ Lý Thường Kiệt] của khanh xâm lăng biên thùy nước ta; tiên Hoàng đế [Thần Tông] với lòng khoan nhân, đích thân ban chiếu dụ cho cải chính biên giới, cùng xét rõ đặc cách cắt khu Khang ải, để làm vật vua ban ơn. Dư âm như tồn tại, nét mựcvẫn còn tươi; đáng nên nghĩ đến sự bao dung, kính cẩn tuân theo phân hoạch; cớ sao mấy lần tâu cáo, vẫn cố chấp con đường mê. Lại đòi hỏi biên giới mới làm vật cũ của mỉnh; lòng tham không chán, còn đâu thấy được việc thờ người trên! Phải chăng ý của khanh như vậy, hoặc do người khác xui nên mê hoặc? Huống các châu động này từ xưa vốn là dân của vua, một lần lấy lại đất Quảng Nguyên, cho đến việc ban cấp châu Thuận, đất đai của khanh vốn không xâm phạm. Khanh hãy đem hết lòng chí thành, tuân theo chiếu chỉ trước, cẩn thận giữ đất phong, chớ mưu mô sinh sự; gắng sức đáp ứng với lòng quan hoài, để vĩnh viễn được ân sủng.”
Lại ra lệnh cho Kinh lược sứ Miêu Thời Trung gửi thông điệp giải đáp những điểm khó khăn.
Bức thư của Vua nhà Lý làm lời mở đầu cho Sứ bộ với danh nghĩa triều cống, đến Trung Quốc nghị bàn về biên giới. Phía nhà Tống lo sợ Đại Việt dùng binh gây áp lực, bèn chuyển quân từ phương bắc đến biên giới Việt Hoa, chuẩn bị đối phó với tình hình:
Trường Biên, quyển 390. Năm Nguyên Hựu thứ nhất [1086]
Ngày Kỷ Dậu tháng 10 [3/12/1086], Khu mật viện tâu:
“Ty Kinh lược an phủ sứ Quảng Tây báo sau khi người Giao vào cống, lo rằng bọn chúng sẽ thêm chuyện làm điều trái; xin sai tăng quân phòng thủ.”
Chiếu ban ty Đô kiềm hạt Quảng Nam Tây Lộ nếu như do thám được người Giao thực sự lúc hoãn lúc gấp tiến hành điều sai trái, thì một mặt điều động Đệ bát tướng đang trú đóng tại đông nam Đàm Châu [Hồ Nam; Xiangtan Hunan] đến Quế Châu đóng [Quế Lâm, Quảng Tây; Guilin Guangxi]; lại ra lệnh ty Kiềm hạt Kinh Hồ [Hồ Bắc, Hồ Nam]chờ cho quân Quảng Tây [Guangxi] điều động thì sai quân đi, cùng trình lên để biết. Đang bàn tính từ kinh đô điều dộng quân xuống Hồ Nam [Hunan] bổ sung; cùng sai 3 Chỉ huy quân Hổ Dực đến ty Kiềm hạt Hồ Nam trú đóng, nhắm hoàn bị việc điều động binh tướng để thêm vào việc sai phái. Chờ khi người Giao vào cống, thì lập tức điều động.
Sứ bộ Đại Việt do Lê Chung cầm đầu trước khi đến kinh đô, đi qua Ung châu [Nam Ninh] gặp viên Tả tàng khố phó sứ Thành Trác, viên quan này trước kia đã từng hội đàm với Lê Văn Thịnh. Tại đây Lê Chung báo cho Thành Trác biết nhiệm vụ Sứ bộ là tiếp tục đòi đất tại biên giới; ngoài ra còn yêu cầu Thành Trác cho sao lục những thư từ của cựu Sứ thần Lê Văn Thịnh trước đây gửi cho triều đình và quan lại nhà Tống. Điều này có thể dọi thêm ánh sáng về vụ án Lê Văn Thịnh thời Lý Nhân Tông năm Hội Phong thứ 5 [1096], Toàn Thư chép, bản dịch như sau:
“Bấy giờ vua ra hồ Dâm Đàm [Hồ Tây, Hà Nội], ngự trên thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mạc Thận quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Thưởng cho Mục Thận quan chức và tiền của, lại cho đất ở Tây Hồ làm thực ấp”(23).
Xét về việc Lê Văn Thịnh biến thành hổ giết vua hiển nhiên đã vô lý; điều kế tiếp là Lê Văn Thịnh sau đó bị an trí tại Thao Giang cũng vô lý luôn; nếu quả Lê Văn Thịnh mưu giết vua, tức phạm tội đại hình, cớ sao chỉ bị an trí?
Qua sự kiện Sứ thần Lê Chung được giao việc sao lục các văn thư và lời nói của Lê Văn Thịnh gửi cho vua quan triều Tống, chứng tỏ Vua Lý Nhân Tông lúc này nhận được báo cáo rằng Lê Văn Thịnh đã gửi những văn thư cho nhà Tống mà không trình cho nhà Vua biết, nên cần phải điều tra. Ngược dòng thời gian, vào năm 1084 trong cuộc hội đàm cương giới, phái đoàn Lê Văn Thịnh dành lại được 6 huyện, 2 động. Với thành tích này, sau khi trở về nước Văn Thịnh được thăng chức Thái sư. Nhưng ông ta không tâu báo hết với Vua về những thư từ giao dịch với vua quan nhà Tống; bí mật này cũng như chiếc kim để trong bọc, lâu ngày sẽ lộ ra.
Đến khi Sứ thần Lê Chung trở về nước, Vua nhận được bản sao các văn thư, đại loại như thư gửi cho Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản có đoạn như sau:
Lê Văn Thịnh gửi thư cho Hùng Bản rằng:
“Thành Trác nói: ‘Thượng Điện, Hạ Lôi [huyện Đại Tân, Quảng Tây], Ôn, Nhuận, Anh, Giao, Vật Dương, Vật Ác, Kế, Thành, Cống, Lục, Tần, Nhiệm Động, Cảnh Tư, huyện Hà Kỷ gồm 18 xứ thuộc đất tỉnh nội địa; biên giới tại phía nam. Tiểu tử Bồi thần nghe theo mệnh, không dám tranh chấp.
(而黎文盛寓書熊本曰:「成卓言:上電、下雷、溫、潤、英、遙、勿陽、勿惡、計、城、貢、淥、頻、任峒、景思、苛紀縣十八處【一○】,從南畫界,以為省地。陪臣小子惟命是聽,不敢爭執。Quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084])
Rõ ràng nội dung thư gửi cho Hùng Bản hoàn toàn trái ngược với quan điểm của nhà vua quyết đòi các động Vật Dương, Vật Ác, được trình bày trong thư gửi cho Vua Triết Tông trích ở trên. Thư Văn Thịnh gửi cho người nước ngoài, trái với chính sách của nhà Vua, lại không cho Vua biết; dưới thời quân chủ việc làm như vậy phạm tội “khi quân”; vì là thầy học Vua, chắc nội vụ được xử kín trong cung đình; chỉ bắt đi an trí, tức quản thúc, chỉ định nơi cư trú mà thôi. Người ngoài không biết đầu đuôi, nên dư luận đồn thổi rằng Văn Thịnh có phép biến thành hổ mưu giết Vua, nên bị đày!(24)
Cũng nên hiểu về thân thế của Lê Văn Thịnh, người đậu thủ khoa đầu tiên dưới triều nhà Lý, cũng tương tự như Trạng Nguyên, lại từng được mời vào kinh đô dạy Vua học. Những ông Trạng trong lịch sử Việt Nam, thường tự thị tài năng, làm theo ý riêng, nên triều đình thường rất kiêng kỵ; chính quyền chuyên chế nhà Nguyễn chủ trương, quan không đặt Tể tướng, khoa cử không lấy Trạng nguyên. Ông Trạng Thịnh, thầy học của vua, lại là người cực thông minh; có lẽ qua những lần giao tiếp hội đàm, nắm bắt tình thế, thấy được hiện tại chỉ có thể lấy được một số đất như vậy, chứ không thể hơn; nên tự động giải quyết bằng lời nói khéo chăng? Cương Mục có nhận xét, cũng cần tham khảo:
“Văn Thịnh thường giữ thái độ mềm dẻo, từ từ lấy lý lẽ mà giải thích, và nói "kẻbồi thầnnày không dám tranh giành". Vua Tống khen là biết cung kính, biết lẽ phải, bèn hạ chiếu trả lạicho ta 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang.”(25)
Văn bản liên quan đến việc Sứ thần nước Đại Việt Lê Chung yêu cầu Thành Trác cho sao lục thư từ của Lê Văn Thịnh gửi cho triều thần nhà Tống như sau:
Trường Biên, quyển 393. Năm Nguyên Hựu thứ nhất [1087]
Ngày Mậu Thân tháng chạp [31/1/1087], Khu mật viện báo:
“Ty Kinh lược Quảng Tây tâu rằng Tả tàng khố phó sứ Đô tuần kiểm Tả Giang Ung Châu Thành Trác trình bày: ‘Tiến phụng sứ Lê Chung mật cáo rằng Quận Vương [vua Lý Nhân Tông] xin đất tại biên giới; nhưng chưa được chiếu thư trả lời. Xin sao lục thư của Lê văn Thịnh trình lên, cùng những lời tuyên bố của ông ta, để lúc trở về bẩm lại với Quận vương.’ Nếu Lê Chung đến kinh khuyết trình bày để xin đất, nên đem các thư dài của Lê Văn Thịnh chi tiết ngọn ngành bảo cho Lê Chung biết để hiểu. Mới đây Thành Trác thân minh rằng người Giao bàn bạc biên giới không nên để phải nói đi nói lại; hãytheo tình trạng như vậy giải quyết ban chiếu ngay; đừng để tương lai người Giao đến kinh khuyết [phái đoàn Lê Chung] dám trình bày láo, thì triều đình khó mà phân xử.”
Chiếu ban Miêu Thời Trung:
“Nếu người Giao không ngừng gửi văn thư về biên giới đất đai, thì đem lời giải thích, khiến cho chúng chịu phục; riêng Thành Trác lệnh ty Kinh lược lấy lý do thương lượng việc công dẫn đến Quế Châu [Quế Lâm].”
Vua Tống Thần Tông mệnh Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] Miêu Thời Trung giải quyết trước việc đất đai với Sứ bộ Lê Chung, không một chút nhượng bộ; nên lúc Sứ bộ đến kinh đô chỉ còn thủ tục nghi lễ, được nhà Vua ban chức tước. Riêng Thành Trác bị tội giảng chức vì tự tiện trao thư từ, tờ trình của Sứ thần Lê Văn Thịnh cho Sứ Đại Việt; việc này cũng chứng tỏ những thư từ đó khá quan trọng:
Trường Biên, quyển 400. Năm Nguyên Hựu thứ 2 [1087]
Ngày Ất Mão tháng 5 [7/6/1087], cho Tiến phụng sứ Giao Chỉ Triều tán lang hộ bộ viên ngoại lang Lê Chung làm Lại bộ viên ngoại lang; Phó sứ tuyên tiết phó hiệu úy tây đầu cung phụng quan cáp môn chi hầu Đỗ Anh Bối làm Đông đầu cung phụng quan Tây kinh tả tàng khố phó sứ.
Ung Châu Tả, Hữu Giang Đô tuần kiểm sứ Thành Trác bị phạt giao chức Nội điện thừa chế thiêm sai giám sát thuế rượu Quân Châu [Hồ Bắc], sai người đưa đi rồi giao phó cho nơi nhận. Do Khu mật viện tâu y có tội gánh vác công việc về giao dịch với người Giao không đúng; lại tự tiện sao lục thư và tờ trình của Lê Văn Thịnh cho An Nam.
Triều Tống muốn xoa dịu Vua Lý Nhân Tông, nên phá lệ cũ phong nhà Vua từ Quận vương lên tước Vương:
Trường Biên, quyển 403. Năm Nguyên Hựu thứ 2 [1087]
Ngày Canh Thân tháng 7 [11/8/1087], Giao Chỉ quận vương Lý Càn Đức được tấn phong Nam bình vương.
(庚申,交趾郡王李乾德進封南平王。)
Bấy giờ tình hình tại phia bắc nước Bắc Tống tương đối ổn định, quân Tống bắt được Thủ lãnh nước Tây Hạ là Quỉ Chương. Khởi đầu triều đình Tống chủ trương giữ Quỉ Chương tại biên giới để dụ người con ra hàng. nhưng viên Tiến sĩ Phạm Thuần Nhân con danh thần Phạm Trọng Yêm dâng sớ lập mưu rằng con Quỉ Chương sẽ không hàng vì nó nghĩ rằng “Cha ta sống do ta không hàng, nếu ta hàng thì 2 cha con đều chết”; vậy cách hay nhất là giết Quỉ Chương, công bố ra khắp nơi, nhắm cảnh cáo Giao Chỉ [Đại Việt] thường gây sự tại phương nam; nội dung trích dẫn như sau:
Trường Biên, quyển 406. Năm Nguyên Hựu thứ 2 [1087]
Ngày Bính Ngọ tháng 10 [25/11/1087], Chiếu ban Quỉ Chương (26) được đưa sang xe chở tù, do Hộ tống đại lý tự thẩm vấn báo cho biết, sẽ dẫn gặp Chuẩn tịch tù áp giải đến điện. Lúc đầu định giữ Ngụy Chương tại biên giới, Phạm Thuần Nhân (27) tâu:
…Nếu lưu mạng sống cho Quỉ Chương nhắm chiêu dụ con; người con sẽ nghĩ rằng: “Cha ta sống do ta không hàng, nếu ta hàng thì hai cha con đều chết.”; như vậy, không có lý nó theo triều đình…..
…..Giao Chỉ mới đây gây sự vô lối, nếu Quỉ Chương bị giết tại kinh sư, tin tức truyền ra 4 phương, e người Giao sợ nên phải đình chỉ âm mưu; khiến cho uy danh triều đính chấn động nơi tuyệt vức, thế nước tôn nghiêm.
Mặc cho những ý đồ đe dọa, với tinh thần bất khuất Vua Lý Nhân Tông vẫn tiếp tục đòi hỏi các động Vật Dương, Vật Ác, và cảnh cáo việc xây đồn lũy, tăng cường phòng thủ tại biên giới. Vua Tống lại một lần nữa dùng chiếu chỉ thuyết phục cùng trấn an:
Trường Biên, quyển 413. Năm Nguyên Hựu thứ 3 [1088]
Ngày Ất Vị tháng 8 [9/9/1088], chiếu ban Lý Càn Đức rằng:
“Trẫm thể theo Tiên đế [Tống Thần Tông] thánh đức kiêm ái, mềm dẽo vỗ về người phương xa; nên chẳng mấy chốc sau khi rút quân từ sông Phú Lương [sông Cầu], xét lời xin khẩn khoản của khanh , lấy các đất như châu Quảng Nguyên ban cấp. Rồi nhân thủ lãnh An Nam nhận lầm vào đất tỉnh nội địa, bèn sai quan biện chính [cải chính sai lầm] phân hoạch; lại từ bên ngoài 8 cửa ải, lấy 6 huyện, 2 động, cho khanh lãnh làm chủ; ơn đức ban ra như vậy, có thể nói đến nơi rồi! Trẫm tuân theo lời dạy vua trước, chỉ muốn yên biên cương; huống mấy lần giảng chiếu dụ hết sức rõ ràng; rằng các động Vật Ác, Vật Dương, không thể bàn lại nữa. Việc xây sửa sơn trại, cắt đặt quân phòng thủ, là việc bình thường tại biên cương; huống đất trước đó đã qui minh (28), rồi sau mới xây, về lý không thể không được làm; như vậy còn có gì nghi ngờ nữa mà phải trình bày?
Đạo nghĩa phiên bang giữ đất, lấy lòng tin làm đầu; sự việc không có gì dối trá, Trẫm không nói lời thứ hai. Việc Thành Trác nhân đi tuần kiểm soát các ải, tự tiện lấy đồ vật vải vóc đưa cho thủ lãnh biên giới, vi phạm qui chế; mới đây ty Kinh lược kiểm soát biết được, bèn đưa lời tâu đàn hạch lỗi sinh sự, đã cho thi hành biếm trích; khanh có thể truy đòi những vật đó rồi giao cho quan.
Với tấm lòng quyến luyến kẻ xa, nên hướng vào sự nghiệp cao cả mà gắng sức; thể theo tấm lòng hoài nhu , giữ yên bờ cõi để được hưởng nhiều phúc.”
Thời cuộc Việt Trung lúc bấy giờ ở thế thăng bằng, hai bên không ai chiếm được thế thượng phong, Vua Lý Nhân Tông mấy lần đòi hỏi thêm về đất đai, nhưng phía Tống quyết không nhượng bộ, lại còn tăng cường phòng thủ biên giới nghiêm nhặt hơn. Tuy lúc này nước Chiêm Thành xích mích với Đại Việt, Sứ Chiêm xin nhà Tống đánh Đại Việt, sẽ mang quân hợp lực; nhưng phía Tống cũng từ chối:
Trường Biên, quyển 470. Năm Nguyên Hựu thứ 7 [1092]
Ngày Đinh Tỵ tháng 2 [14/3/1092], nước Chiêm Thành dâng biểu tâu:
“Cùng với đại triều đỉnh muốn dẹp sạch Giao Chỉ, xin mang quân hợp lực tập kích.”
Lúc bấy giờ Chiêm Thành và Giao Chỉ có mối thù lâu đời; nhưng Giao Chỉ hiện nay vào cống, không dứt lễ bề tôi, khó có thể bàn việc mang quân đánh. Lệnh Học sĩ viện hầu tướng giảng sắc thư cho Chiêm Thành, cứ y như vậy mà hồi đáp.
Trầm trọng hơn, có 17 quan chức và gia nhân thuộc các châu Ung, Khâm, Liêm bị phía Đại Việt bắt trong cuộc chiến tranh Lý Tống trốn thoát trở về nước. Bằng cớ chứng tỏ rằng còn có rất nhiều tù nhân bị giữ lại tại nước Đại Việt, nhưng nhà Tống vẫn im lặng, ngậm bồ hòn làm ngọt, không ra mặt phản đối hoặc đòi hỏi:
Trường Biên, quyển 476. Năm Nguyên Hựu thứ 7 [1092]
Ngày Ất Hợi tháng 8 [28/9/1092], ty Kinh lược Quảng Tây tâu:
“Nguyên Đông đầu cung phụng quan, Giám áp trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây] Tô Tá, từ Giao Chỉ về. Cùng với những người như bà vợ họ Lý của cố Ung Châu Trú bạc đô giám Cung bị khố phó sứ Tào Xuân Khanh gồm 17 người; họ vượt biển trốn về.”
Chiếu ban, Tô Tá cùng người nhà 9 người, lệnh ty Kinh lược Quảng Tây thẩm vấn xong, cấp cho bằng khoán sử dụng phương tiện trạm dịch, ưu đãi tiền tiêu dùng, cử 1 viên Chỉ sử đem đi đến kinh đô. Số còn lại 8 người, cho cư trú tại chỗ, ưu đãi thêm trợ cấp. Việc sắp xếp, ban cấp ra sao phải tâu lên.
Sự thành bại ở đời dựa 3 yếu tố: thời, thế, cơ; thời thế cơ hội chưa đến, nên tấm lòng yêu nước, quyết dành lại đất đai của tổ tiên, chưa hoàn thành một cách mỹ mãn. Chỉ tiếc rằng mấy chục năm sau đó, vào năm 1126 Bắc Tống gặp cái gọi là Mối Nhục Thời Tĩnh Khang [靖康之恥Tĩnh Khang Chi Sỉ]; quân nước Kim từ phương bắc, hai mặt tấn công, đánh tan Biện kinh [Khai Phong thị, Hà Nam] “bắt sống 2 vua Huy Tông và Khâm Tông, cùng Hoàng hậu, Phi Tần, Tôn thất..” (驅擄徽、欽二帝和宗室、后妃). Sự thế lúc bấy giờ nhà Lý muốn lấy lại đất đai cũ không mấy khó khăn; nhưng lúc này vua Lý Nhân Tông đã già sắp mất, nên đành bỏ lỡ cơ hội; đó là điều đáng tiếc.
Chú thích:
1. Cơ Lang: Trường Biên chép là Cơ Lang, nhưng Tống Sử, Cương Mục chép là Quang Lang.
2. Muốn tìm vị trí đất Trung Quốc trên bản đồ Googles, xin dùng âm Pinyin; ví như Bằng Tường thị, Quảng Tây xin sao chép Pingxiang Quangxi lên bản đồ, rồi gõ, sẽ hiện lên vị trí Bằng Tường thị.
3. Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, Đào Duy Anh, Huế: NXB Thuận Hóa, 1994.
4. Để độc giả dễ phân biệt, vùng đất nào thuộc Trung Quốc hiện nay, người viết cố ý dùng chữ theo kiểu Trung Quốc, như Qui Hóa Châu, Thuận An châu, Cống động; vùng đất nào thuộc Việt Nam dùng chữ theo lối Việt Nam như châu Thuận, huyện Quang Lang, châu Quảng Nguyên vvv
5. Phạm Tổ Vũ: Sử gia nỗi tiếng đời Tống.
6. Đất Trung Quốc Giáp Việt Nam Qua Các Đời, Hồ Bạch Thảo, trang 298, Tĩnh Tây thị đời Nguyên gọi là châu Qui Thuận; có lẽ tên này do hai châu Qui Hóa và Thuận An gộp lại.
7. Chỉ huy: Theo văn bản Trường Biên ngày Kỷ Dậu tháng chạp năm Hy Ninh thứ 8 [30/1/1076], 1 chỉ huy có khoảng 500 quân.
8. Quang Lang, Trường Biên gọi là Cơ Lang; Cương Mục, Chính Biên, quyển 3, chú thích: Tên huyện. Nhà Lý gọi là huyện Quang Lang; nhà Trần gọi là châu Khưu Ôn; khi thuộc Minh gọi là Ôn Huyện; nhà Lê gọi là Ôn Châu, tức là Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn bây giờ.
9. Cần phân biệt Thuận An châu và châu Thuận: Thuận An châu nguyên là động Vật Ác, bị Nùng Trí Hội nạp cho nhà Tống, hiện nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, thuộc Tĩnh Tây thị [jingxi], tỉnh Quảng Tây. Châu Thuận, tức châu Quảng Nguyên, hiện thuộc tỉnh Cao Bằng Việt Nam. Để độc giả dễ phân biệt, vùng đất nào thuộc Trung Quốc hiện nay, người viết cố ý dùng chữ theo kiểu Trung Quốc, như Thuận An châu, Cống động; vùng đất nào thuộc Việt Nam dùng chữ theo lối Việt Nam như châu Thuận, huyện Quang Lang vvv…
10. Qui minh 歸明: theo con theo đường sáng; từ ngữ tỏ ra tự phụ tự kiêu, dùng để chỉ dân các nước lân bang bỏ theo Trung Quốc.
11. Giác sát: quan sát và phát giác.
12. Miếu húy: tên riêng của vua chúa hoặc cha mẹ tổ tiên vua, bị húy kỵ.
13. Chỉ huy: Theo văn bản Trường Biên ngày Kỷ Dậu tháng Chạp năm Hy Ninh thứ 8 [30/1/1076], 1 chỉ huy có khoảng 500 quân, tương đương 1 tiểu đoàn ngày nay.
14. Tống Sử, quyển 488, Liệt Truyện thứ 247, Ngoại Quốc, quyển thứ 4, Giao Chỉ.
15. Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên, Lý Đào, quyển 300.
16. Tê ngưu [犀牛]: một số người quen gọi là tê giác, gọi như vậy không đúng. Tê giác là sừng con tê ngưu.
17. Lãnh biểu: miền ngoài Ngũ Lãnh, ý chỉ các tỉnh Quảng Đông Quảng Tây.
18. Lê Văn Thịnh thủ khoa đầu tiên dưới triều Lý thời Lý Nhân Tông năm Thái Ninh thứ 4 [1075]: Theo Cương Mục, trước đó chưa có khoa cử, những người thông minh được đề bạt theo con đường Phật Giáo.
19. Qui minh 歸明: theo con đường sáng; từ ngữ dùng theo lối tự phụ tự kiêu, để chỉ dân các nước lân bang bỏ theo Trung Quốc.
20. Qui Hóa châu, Thuận An châu: theo bản đồ Bắc Tống, vị trí các châu này hiện nay nằm trong phạm vi Tĩnh Tây thị [Jingxi], tỉnh Quảng Tây.
21. 18 xứ: nguyên tác, chú thích số 10 ghi “Trên trình bày địa danh 18 xứ, không đủ 18, nghi có sai lầm” [十八處上列地名不足十八處,疑有誤。]. Tra cứu Bản Đồ Quảng Nam Tây Lộ thời Bắc Tống, ngoài 2 động Vật Dương, Vật Ác đã xác định vị trí; Vật Dương tức Qui Hóa châu, Vật Ác tức Thuận An châu; vị trí 2 châu hiện nay đều nằm trong Tĩnh Tây thị, Quảng Tây [Jingxi Guangxi]; còn tra thêm được 4 vùng đất sau đây: Kế động, vị trí thuộc Tĩnh Tây thị [Jingxi Guangxi], tại phía bắc thị xã; Tần Động vị trí thuộc Tĩnh Tây thị, phía Nam thị xã giáp với biên giới Việt Trung; Nhiệm Động vị trí thuộc Tĩnh Tây thị, phía nam thị xã giáp biên giới Việt Trung; Lục động vị trí thuộc Tĩnh Tây thị, phía tây thị xã; Thượng tức Thượng Ánh châu. Tra thêm Đất Trung Quốc thấy 3 vùng đất sau đây: Anh, trang 180 ghi đời Tống là Long Anh Động thuộc trại Thái Bình, nay thuộc huyện Đại Tân [Daxin] Quảng Tây; Hạ Lôi, trang 132 ghi đời Tống thuộc châu Hạ Lôi, hiện nay thuộc huyện Đại Tân; Nhuận tức trại Hồ Nhuận, trang 317 ghi thuộc Tĩnh Tây thị.
22.Theo văn bản Trường Biên, quyển 349, năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]:Vào thời Gia Hựu [1056-1059], bọn Nùng Tôn Đán đem động Vật Ác qui phụ, ban tên Thuận An châu; thời Trị Bình [1064-1067] Nùng Trí Hội đem động Vật Dương qui phụ, ban tên là Qui Hóa châu.
(嘉祐中,儂宗旦以勿惡等峒歸明,賜名順安州。治平中,儂智會以勿陽峒歸明,賜名歸化州。)
23. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
24. Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 3.
25. Cương Mục, Chính biên, quyển 3.
26. Quỉ Chương: Thủ lãnh nước Hạ tại miền tây Trung Quốc, bị quân Tống bắt.
27. Phạm Thuần Nhân: Tiến sĩ, con thứ danh thần Phạm Trọng Yêm.
28. Qui minh 歸明: theo đường sáng, dùng từ này để chỉ dân các nước lân bang bỏ theo Trung Quốc.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.