TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tin văn
Nguyễn Xuân Sanh - Xuân Thu Nhã tập và thơ
Nguyễn Xuân Sanh - Xuân Thu Nhã tập và thơ
Nói đến Nguyễn Xuân Sanh người ta nói ngay đến nhóm Xuân Thu nhã tập nhằm cách tân văn chương, nhất là thơ trong giai đoạn 1930-1945 và chính thời gian này HT-HC cho ra đời cuốn Thi nhân Việt Nam mà theo giới nghiên cứu và thưởng lãm thì chưa có cuốn bình thơ nào qua mặt được Thi nhân Việt Nam của HT-HC về thơ trong giai đoạn này. Thế nhưng trong sách Thi nhân Việt Nam, HT-HC chỉ nhắc qua Nguyễn Xuân Sanh, không có phần riêng giới thiệu ông. Trong phần dẫn nhập “Một thời đại trong thi ca”, HT-HC chỉ viết một câu: “Các Ô. Bích Khê và Xuân Sanh noi theo gương Mallarmé, Valéry không thèm gìn giữ gì hết”. Mallarmé và Valéry là hai trong số các nhà thơ Pháp theo phái Tượng trưng còn gọi là chủ nghĩa Tượng trưng và nhóm Xuân Thu nhã tập theo đuổi mục tiêu cách tân thơ Việt (giai đoạn 1930-1945), chịu ảnh hưởng các nhà thơ này. Nhắc tên nhưng không viết giới thiệu, bình thơ Nguyễn Xuân Sanh mà giới thiệu một thành viên khác trong nhóm là Đoàn Phú Tứ với bài Màu thời gian và lời bình “có cánh”: Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc. (...) Tôi tưởng Đoàn Phú Tứ có thể đọc thơ mình trước mọi người mà không sợ ngượng.
... Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát.
Bài thơ 18 câu, HT-HC dùng đến 10 chú thích và bình thêm: Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế.
Còn với Nguyễn Xuân Sanh, chính trong ấn phẩm Xuân Thu nhã tập mới được tái bản, có bài Buồn xưa in chung Màu thời gian với cước vận đều thanh bằng:
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vành cung ướp hương
(...)
Hiến dâng
Hiến dâng quả bồng hường
Hoàng tử nghiêng buồn vây tóc mưa
Đường tàn xây trái buổi du dương
Thời gian ơi tưới hận chìm tường
Nguồn buồn lạnh lẽo thoát chung hơi
Ngọt ngào nhớ chảy tự trăm phương
Có ảnh hưởng Mallarmé phái Tượng trưng nhưng Nguyễn Xuân Sanh dịch thơ Mallarmé còn dễ hiểu hơn như bài Die Autumn (Mùa thu chết)
Vô cùng bỡ ngỡ...
Máu em sôi trào
Chính anh đã trao
Cuộc đời cho gió...
Ngọt ngào dữ tợn
Trong mái tóc em
Hồn anh khát thèm
Ấy điều anh muốn.
Học ở Quy Nhơn rồi ra Quốc học Huế, Nguyễn Xuân Sanh là bạn thân thiết với Huy Cận, thời gian này ông viết bài Gió thu được Chế Lan Viên yêu thích:
(...) Bàn tay anh ướt chút sương sa
Hỏi lại lòng anh những mặn mà
Chiếc lá cuối cùng vừa mới rụng
Thế là đã hết gió thu qua...
Xuân Thu nhã tập ra đời năm 1942 với những Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và chỉ in được 1 ấn phẩm nhưng gây được tiếng vang rồi mất hút sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Người ta biết Nguyễn Xuân Sanh tham gia kháng chiến chống Pháp, phụ trách tạp chí Sáng Tạo ở Liên khu IV. Ông làm Hiệu trưởng Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ đến 9 năm, từ năm 1966-1975. Gia tài thơ của ông đồ sộ thêm với 8 tập thơ sáng tác và hơn 10 tập thơ dịch khắp các nước 5 châu.
Trong số các bài thơ sau này, có bài đưa vào sách giáo khoa bậc tiểu học, như bài Cô giáo lớp em:
Cô dạy em tập viết
Gió đưa thoảng hương nhài
Nắng ghé vào cửa lớp
Xem chúng em học bài
Những lời cô giáo giảng
Ấm trang vở thơm tho
Yêu thương em ngắm mãi
Những điểm mười cô cho.
Thi sĩ cuối cùng của phong trào Thơ Mới 30-45 Nguyễn Xuân Sanh qua đời và dữ liệu được nhắc ngay là Xuân Thu nhã tập, chưa hẳn vì là hay, là sáng tạo có sức thuyết phục và lan tỏa nhưng được nhắc vì khát vọng sáng tạo của người làm văn chương được ghi nhận.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.