• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Diễn đàn lý luận
 
NHÀ THƠ CỦA MỘT BẾN SÔNG

NHÀ THƠ CỦA MỘT BẾN SÔNG



                                                                             THANH THẢO

- 29-02-2016 05:34:41 PM

Bến sông ấy có tên là My Lăng. Bến My Lăng ở đâu? Hình như ở trong mơ, dưới trăng, một vầng trăng bạc xám ám ảnh trên thành cổ Đồ Bàn. Có thể là bến sông của một cô gái người Chàm, của một kỵ sĩ Chàm, của một ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông lái đò của những thời khắc hiện tại, của dòng sông đang trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có lẽ, bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị.

“Bến My Lăng nằm không thuyền đợi khách

 Rượu hết rồi ông lái chẳng buông câu”

Ngày ấy, cách đây cũng đã hai mươi năm, cùng với đoàn làm phim của Nguyễn Thụy Kha, tôi đã đến thăm tuổi tám mươi của nhà thơ Yến Lan. Buổi trưa, căn nhà bên chợ Bình Định nóng hầm hập. Nhà thơ già nằm trên cái bến My Lăng nhỏ xíu của ông: đó là chiếc giường mét hai, cũ kỹ. Ông nằm đó, như ông lái đò thuở nào trong thơ ông, chờ một chuyến đò cuối cùng sang bến khác, bờ khác, cái bến My Lăng tận cõi vô cùng.

     “Không được sống, xin cho cùng được thở”

                           ( Bình Định 1935)

Tôi lẩm nhẩm câu thơ ông viết từ sáu mươi năm trước, câu thơ nó vận vào cả đời thơ của ông. Bây giờ, ông chỉ mong cùng được thở với những ngôi “nhà ngơ ngẩn”, những “tường vôi keo kiết”, với cái khung “trời võ vàng, trời thiếu những vì sao” kia, ông chỉ muốn được cùng thở cái không khí đặc biệt Bình Định, giữa những từ trường của Tháp Chàm, bên cái chợ đầy mùi cần lao và đời sống. Trước ống kính chăm chút cẩn trọng của nhà quay phim Đăng Minh, giữa bạn bè đồng niên vong niên, bên người vợ hiền tần tảo bao năm chia bùi sẻ đắng, tôi nhận thấy trên gương mặt nhà thơ già những nét tươi giãn. Giọng ông bắt đầu có khí sắc hơn, từ âm thầm sang cảm động rồi chuyển tới hào hứng. Khi Thụy Kha hỏi ông có buồn vì nhiều năm chịu đựng những trắc trở, cơ cực, tôi lại đọc được trên gương mặt ông sự bình thản:

               “Có nỗi buồn khỏe ra

                 Có niềm vui chạnh mãi”

           (Uống rượu với bạn đồng hương)

Ngày tập thơ “Những ngọn đèn” của ông với lời tựa của Văn Cao bị túi bụi phê phán, tôi chỉ là một đứa trẻ vô tư. Mãi sau này, khi được gặp ông, gặp Văn Cao, khi đã ít nhiều nếm trải vị này mùi nọ của cuộc đời, tôi mới thấy tiếc: có biết bao ngọn đèn, nhẽ ra đã sáng hơn... dù những ngọn đèn chỉ soi từ chính nó, thì nó cũng bật sáng một cái gì. Lặng nghe nhà thơ Yến Lan kể: “Gia đình tôi rất thân với nhà thơ Quang Dũng. Anh Quang Dũng người to lớn, trông như võ sĩ, nhưng tính thực hiền, lại hay mau nước mắt. Thời đó, mỗi tháng cán bộ chỉ được mua 13 cân gạo, tôi với bà nhà tôi ăn ít, nên vừa đủ. Còn anh Quang Dũng to khỏe ăn nhiều, nên anh thường xuyên bị đói. Mỗi lần anh đến nhà chơi, bà nhà tôi đều lặng lẽ đong cho anh túi gạo chừng dăm ba cân, để anh ăn thêm. Lần nào, anh cũng khóc”.

Tôi lặng nhìn, trên tường căn nhà nhỏ, treo bức sơn dầu phong cảnh Quang Dũng vẽ, từ ba mươi lăm năm trước. Thần thái bức tranh còn tươi lắm, tươi như tình nghĩa những nhà thơ nghèo đối đãi với nhau. Ở đời, dù giàu như Thạch Sùng, thì cũng không qua được cái “ mẻ kho trăm năm”, cái mẻ kho đong đưa, như đùa, như thật. “Chỉ những câu thơ là còn xanh”, tôi nhẩm đọc câu thơ Văn Cao như một niềm an ủi. Mà có khi đúng thật. Yến Lan mãi còn bến My Lăng của ông, cái bến sông riêng của linh hồn ông, với tiếng gọi đò thê thiết, tiếng gọi như đến từ cõi khác, từ một Đời Sống khác:

          “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

            Gọi đò – thôi, run rẩy cả ngành trăng”

                              (Bến My Lăng)

Và “Ông lái buồn để gió lén mơn râu” kia, là ai, nếu không phải là chính Yến Lan nhà thơ, nằm đợi mãi một tiếng gọi đò, đợi mãi một giọt trăng chầm chậm rơi qua màn sương bạc. Thụy Kha lại hỏi: “Vào một lúc nào đó trong đời, anh có sợ không? ”. Ông Yến Lan nói nhỏ, tôi không nghe rõ, nhưng nhìn gương mặt ông, tôi biết ông trả lời rất thật, “lời say thường vốn thật”, ở đây ông không say, nhưng vẫn thật: ông sợ. Nghe ông nói sợ, thì tôi hãi. Nhưng kìa, một cơn gió nhẹ mát từ chợ thổi vào, nhà thơ già bỗng nhẹ thênh, lơ mơ ông đọc:

“Kìa mặt trăng đêm nay

Tựa yên thành cửa sổ

Hẳn vì thấy ta say

Kê gối vào giấc ngủ”

           (Uống rượu với bạn đồng hương)

Xin nhà thơ già hãy kê mái đầu bạc vào bến My Lăng bạc, màu của trăng Chàm, trăng Bình Định ám ảnh, day dứt, ma ma thật thật... Bến My Lăng của một tiếng gọi đò đầy khao khát.

Chỉ hai năm sau lần chúng tôi gặp Yến Lan tại nhà ông, thì “Người Mohican cuối cùng” của trường thơ Bình Định đã ra đi. Ông tuổi Bính Thìn, cùng tuổi với Xuân Diệu, Bích Khê, Hữu Loan. Trong các nhà thơ của “trường thơ Bình Định”, thì Yến Lan sống lâu nhất, chung thủy nhất với thành Đồ Bàn, với chợ Bình Định, với bến My Lăng của ông:

                      “ Ông lão vẫn say, đầu gối sách

                        Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng”

Dường như, Yến Lan là con thuyền đã được neo vào bến sông quê nhà, nhưng hồn của con thuyền ấy thì cứ bay lên, run rẩy mà bay lên tận “ngành trăng”, cái màu trăng bàng bạc trên kinh đô cũ Đồ Bàn, ám ảnh và trầm mặc. Chính không khí ấy nơi quê nhà đã làm nên không khí đặc biệt trong thơ Yến Lan, cái không khí bàng bạc, khắc khoải, ẩn chứa. Nó không hẳn hoài cổ, cũng không hẳn hướng về tương lai một cách hăm hở. Nó lưỡng lự, như một câu thơ của Bích Khê “Nơi đây thành phố đời ngưng mạch”, nó đoản mạch đó rồi lại liền mạch đó, trôi trôi ngừng ngừng, hư hư thực thực. Với những nhà thơ thuộc “trường thơ Bình Định” như Yến Lan, thì chất siêu thực là có thực trong thơ họ, dù Yến Lan đậm đà giọng cổ thi, còn Quách Tấn thì sóng sánh chất Đường thi.

                              “ Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh

                         Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng”

                                                          ( Bến My Lăng”

Đó là cái không khí mấp mé giữa thực và hư, giữa thực và siêu thực mà thi sĩ chỉ có thể làm được trong những cơn xuất thần ngắn ngủi. Cuối đời, Yến Lan quay về thơ tứ tuyệt, ông tìm về cái cội nguồn của Đường thi để hòa trộn cái mơ và cái thực của thơ mình.Có khi, cái thực lại khiến tác giả và ta chợt giật mình, cứ như vừa tỉnh một giấc chiêm bao.

                   “Sáng đọc Nam Hoa Kinh

                     Tối nằm không hóa bướm

                     Mừng mình chủ được mình

                     Dậy thổi nồi khoai sớm”

                               ( Đọc Nam Hoa Kinh)

Đời Yến Lan dường như lặng lẽ. Nhưng giấu sau vẻ lặng lẽ ấy là không ít sóng gió, không ít đắng cay. Nhưng với nhà thơ, cay đắng ấy có khi làm nên quả ngọt. Ở những ngày cuối của đời mình, Yến Lan viết những bài thơ tứ tuyệt như những quả chín muộn, như rượu ủ đã ngấu, men đã dịu, cứ thoang thơm thơm, nhè nhẹ say.

           “ Tám tư(1984) về lại ở An Nhơn

              Phố cũ người xưa chẳng mấy còn

              Đêm đến nằm nghe cành liễu phất

              Chợt nhìn quen thuộc tiếng chuông boong”

“Nhìn” được “tiếng chuông ngày cũ” là đã hòa trộn được thị giác và thính giác, đã nghe được sắc màu và nhìn được âm thanh. Bài thơ này Yến Lan đã viết ngày 3/6/1998. Ông đã làm thơ tới hơi thở cuối cùng, theo đúng nghĩa đen. Có gì lạ đâu, thơ là niềm an ủi, là bạn bầu của tâm linh ông. Thơ đã đi cùng ông hai phần ba thế kỷ, và còn lại khi ông đã nhập vào ánh trăng. Cái ánh trăng bàng bạc trên thành cổ Đồ Bàn, trên dòng sông huyền hoặc mang tên My Lăng.                                    

 



Tin tức khác

· NGỌN NÚI CAO NHẤT QUẢNG TRỊ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LIÊN TỤC
· NGUYỄN XUÂN SANH VÀ HÀNH TRÌNH VƯỢT QUA GIỚI HẠN CỦA THƠ MỚI VIỆT NAM - Tiểu luận GS PHONG LÊ
· ĐINH THỊ NHƯ THÚY - GƯƠNG MẶT CỦA TIẾNG THƠ NỮ QUYỀN -Tiểu luận NGUYỄN VIỆT CHIẾN
· NGÃ DU TỬ - NHỚ VỀ QUÊ HƯƠNG
· LƯU VĨNH PHÚC - TỪ THỦ LĨNH 'QUÂN CỜ ĐEN' ĐẾN TỔNG THỐNG ĐÀI LOAN DÂN CHỦ
· NGÔ NHÂN TỊNH - TÙ DANH SĨ NAM BỘ ĐẾN CÔNG THẦN TRIỀU NGUYỄN VÀ NỖI OAN THẾ SỰ
· TRẬN ĐỊA KÝ ỨC VÀ Ý THỨC HỆ CỦA VIỆC ĐỌC 'NỖI BUỒN CHIẾN TRANH' - Tiểu luận ĐOÀN ÁNH DƯƠNG
· NGUYỄN DU VÀ TIẾNG NGHỆ - Tiểu luận VƯƠNG TRỌNG
· 'ĐỜI DU NGƯ' - TRI THỨC VÀ CĂN TÍNH BẢN ĐỊA - Tiểu luận TRẦN BẢO ĐỊNH
· THƠ PHAN HOÀNG - NHỮNG ÁM ẢNH CUỒNG PHONG, BÃO LŨ - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· PHẠM ÁNH SAO 'ĐI DỌC MÙA THƯƠNG' - Tiểu luận MAI VĂN PHẤN
· TẠI SAO VĂN CHƯƠNG MURAKAMI LẠI HẤP DẪN ĐẾN THẾ?
· HỮU LOAN - NHÀ THƠ MỘT THỜI
· CẦN VINH DANH NGƯỜI CÓ CÔNG ĐẶT NỀN MÓNG ĐÀNG TRONG
· LỊCH SỬ BỊ BÓP MÉO, PHÁP LUẬT BỊ BẺ CONG
· NHÀ THƠ XUÂN HOÀNG - LÒNG TÔI THÀNH CÁNH GIÓ LUNG LINH
· NHƯ LÀN HƯƠNG VÀ GIỌT SƯƠNG MAI - Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· TỪ BỤC GIẢNG ĐẾN TÁC PHẨM - HÀNH TRÌNH LAN TỎA YÊU THƯƠNG
· VỊ THÁM HOA NÀO 10 NĂM GIỮ CHỨC TỂ TƯỚNG KHIẾN THIÊN HẠ YÊN VUI!
· BA NHÂN VẬT CÓ THẬT TRONG LỊCH SỬ XUẤT HIỆN TRONG MINH GIÁO GỒM NHỮNG AI?

Tin tức mới
♦ ĐẾN VỚI “TINH HUYẾT” ĐẾN VỚI MỘT THẾ GIỚI THƠ MƠ ẢO (11/12/2025)
♦ CHÙM THƠ THIẾU NHI CỦA THÈN HƯƠNG  (11/12/2025)
♦ NGỌN NÚI CAO NHẤT QUẢNG TRỊ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LIÊN TỤC (11/12/2025)
♦ NGUYỄN XUÂN SANH VÀ HÀNH TRÌNH VƯỢT QUA GIỚI HẠN CỦA THƠ MỚI VIỆT NAM - Tiểu luận GS PHONG LÊ ()
♦ ĐINH THỊ NHƯ THÚY - GƯƠNG MẶT CỦA TIẾNG THƠ NỮ QUYỀN -Tiểu luận NGUYỄN VIỆT CHIẾN (11/12/2025)
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1827663
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 71534
Truc tuyen Trực tuyến: 4

...

...

Designed by VietNetNam