• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
 
TRẦN KIÊN - NGƯỜI DU KÍCH GIÀ

TRẦN KIÊN - NGƯỜI DU KÍCH GIÀ



                                                                       Thanh Thảo                 

Trong đời mình, ông Trần Kiên đã giữ nhiều chức vụ, đã đảm đương nhiều trọng trách. Nhưng vì  sao tôi chỉ muốn gọi ông là một người du kích, một lão du kích. Đúng rằng ông đã từng là du kích Ba Tơ  cũng đúng rằng ông đã lăn lộn qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ ở những địa bàn ác liệt, những nơi mà ông thường xuyên phải sống và chiến đấu theo kiểu du kích, như những người du kích. Nhưng gọi ông là “lão du kích” vì ông luôn hiện trước chúng tôi, hiện trong tâm tưởng tôi như một người du kích, ngay khi  cuộc chiến tranh đã qua rất lâu rồi. Cách đây mấy năm, khi đã vào tuổi tám mươi, ông Trần Kiên rủ mấy anh em chúng tôi đi về vùng chiến khu xưa, nơi ông từng chiến đấu trong đội quân du kích Ba Tơ. Phải thấy khi ông đứng giữa vùng rừng ngày xưa là nơi luyện quân, phải nhìn thấy ông tay cầm con rựa đi phăm phăm chặt cây rẽ lối, mới cảm nhận được hết con người du kích trong ông. Đã có quá nhiều giai thoại về ông Trần Kiên, nhưng là người từng qua Trường Sơn ngày đánh Mỹ, tôi cứ nhớ mãi chuyện những người lính kể cho nhau về một cái lệnh đặc biệt của ông Kiên, yêu cầu những người đi qua các binh trạm mỗi khi đào sắn (củ mì ) để ăn, thì sau đó phải chặt những thân cây mì trồng lại, để những người qua sau có lương thực những khi đói lòng. Tôi nghĩ, nếu một người không có tâm hồn và cách tính toán của một người du kích từng quá quen những gian khổ, sẽ không bao giờ nghĩ ra được một cái lệnh như vậy. Suốt đời ông Trần Kiên chỉ gói tròn một tâm niệm: làm sao để những người lính bình thường có thể sống và chiến đấu tốt nhất trong điều kiện có thể, làm sao để mỗi người dân bình thường có được những nhu cầu vật chất cũng như tinh thần bình thường để họ có thể sống như những con người bình thường. Không có những tư duy theo kiểu “vĩ mô “ nhưng vô bổ , suốt đời ông Trần Kiên, ông luôn suy nghĩ những điều cụ thể, luôn làm những việc cụ thể nhưng có ích cho dân. Tấm lòng đối với nhân dân của ông là một hằng số, cũng như tư tưởng nhân dân là một hằng số trong ông, trong khi những điều khác có thể chỉ  là những biến số.  Có lần, trong lúc vui chuyện, ông Kiên kể tôi nghe, thời ông làm bí thư tỉnh Dak Lak, ông đã huy động nhiều đoàn xe tải về thành phố Hồ Chí Minh để chở… rác thải, mang về Dak Lak bón cho cà phê ở những nông trường cà phê, bắt đầu từ đó gây dựng nên vùng chuyên canh cà phê Dak Lak nổi tiếng như sau này ta biết. Những việc làm theo kiểu “Ngu Công dời núi" ấy đã khiến ông Kiên “được” nhiều giai thoại, mà cũng làm cho ông phải “chịu" nhiều giai thoại. Những lần gặp ông, mỗi khi chúng tôi nhắc lại những giai thoại về ông, ông Trần Kiên chỉ mỉm cười hiền lành. Ông không coi đó là cái gì quá đáng để phải quan tâm. Ông không phải người sống vì những giai thoại. Cả đời ông, ông chỉ sống để làm được bất cứ cái gì có lợi cho dân, để những người dân nghèo đỡ khổ. Từ những thí nghiệm “ba tầng sinh thái “đến những mơ ước làm sao truyền kỹ thuật canh tác và chăn nuôi một cách khoa học và có hiệu quả cho bà con các dân tộc thiểu số, những người đã chịu vô vàn hy sinh để nuôi cách mạng từ những ngày gian khổ, ông Kiên đều cài trong mỗi việc dù nhỏ của mình một tình yêu lớn, tình yêu nhân dân, yêu những người dân nghèo khổ. Trước ngày qua đời không lâu, ông Kiên đã nhiều lần đi Tây nguyên, nhiều lần về tận những buôn làng để gặp gỡ đồng bào các dân tộc. Phải thấy cảnh ông Trần Kiên ngồi giữa những người dân nghèo, mới  hiểu vì sao ông được những người dân bình thường coi ông là người của họ. Không phải người lãnh đạo nào cũng được như vậy, được nhân dân tin và yêu như vậy. Xuất thân từ một tá điền, một người nông dân đi làm cách mạng, ông Trần Kiên đã phấn đấu suốt đời để tự học. Học trong thực tiễn cách mạng, học trong sách vở, nhưng luôn đem sách vở đối chiếu với thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo sách vở, ông Trần Kiên đã trở thành tấm gương cho những người tự học. Không dấu dốt, nhưng cũng không hề tự ti, ông Kiên khi làm lãnh đạo đã đưa ra được những quyết sách táo bạo mà không phải người có học nào cũng nghĩ ra được và cũng dám kiên trì với  quyết định của mình.

    Khi người lãnh đạo biết sống hết mình vì dân, mọi suy nghĩ hành động của mình đều lấy lợi ích của nhân dân làm trọng, thì dù phải đi trong rừng rậm, cũng tìm được lối ra. Có lẽ bây giờ thật hiếm có người lãnh đạo nào đã  “làm quan” tới cỡ “nhất phẩm “ như ông Kiên, một ông “quan to” như thế mà khi về hưu lại thanh thản sống trong căn nhà nhỏ như thế. Một ngôi nhà cấp bốn tuềnh toàng. Nghe kể, có lần, nhà vệ sinh của ông bị hỏng, một vài anh em có trách nhiệm và yêu quí ông muốn đề nghị cơ quan xây lại cho ông, nhưng ông Kiên đã cảm ơn và… từ chối. Ông nói: “Tôi cảm ơn anh em đã nghĩ đến. Nhưng tôi ngại. Không phải ngại vì được một nhà vệ sinh mới. Tôi ngại vì nhỡ xây chỉ tốn 5 triệu nhưng người ta kê khống lên… 50 triệu, thì khổ tôi. Dân mình còn nghèo lắm, tôi ở thế này là đã hơn người nghèo nhiều rồi".  Ông Trần Kiên là vậy. Ông không phải là người sống liêm khiết chỉ để “lấy tiếng “ cho bản thân mình . Ông sống liêm khiết vì nhân dân của ông.

Ông trong sáng vì chính nhân dân mình, vì muốn xứng đáng với nhân dân mình. Sự trong sáng và liêm khiết ấy được đặt trên một hằng số: nhân dân. Nhưng tôi kính trọng và yêu mến ông còn vì một lẽ: ông là tấm gương cho tôi, và hẳn không chỉ cho riêng tôi, để thấy một người khi đã yêu nhân dân mình, khi đã nguyện sống vì nhân dân mình, thì phải sống như thế nào. Và một con người khi đã sống có mục đích, có lý tưởng, thì sẽ tự giải quyết mọi vấn đề cho mình như thế nào, theo những tiêu chí nào. Đời người chỉ sống có một lần. Quả vậy. Làm sao để khi chết đi, cái để lại là cái tiếng, chứ không phải cái miếng. Dù là cái miếng to, cái miếng ngon. Nói như thế nghe có vẻ quá lý tưởng , thiếu thực tế. Nhưng con người sống không có lý tưởng thì sống để làm gì ?                                

 

 

                                                   


Tin tức mới
♦ NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU' (19/08/2025)
♦ THƠ NGUYỄN DOÃN VIỆT - NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐI VỚT TRĂNG ĐÊM (19/08/2025)
♦ ẤN TRỜI NIÊM GIỮ MIỀN THƯƠNG -Tản văn VÂN ĐAM (19/08/2025)
♦ 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP (19/08/2025)
♦ CHÙM THƠ VÕ VĂN HÂN - MẪU HỆ TRUYỀN THỪA ÂM ĐIỆU BU NOONG ()
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1729491
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 51630
Truc tuyen Trực tuyến: 9

...

...

Designed by VietNetNam