Như nhiều người đã biết, Bích Khê ban đầu sáng tác theo các thể thơ truyền thống; nhiều bài đã đăng báo. Tuy vậy, chưa ai biết rõ phần sáng tác này đã được tác giả sắp xếp thành tập hay chưa, dung lượng ra sao. Trong sưu tập Thơ Bích Khê (Chế Lan Viên, Hà Giao, Nguyễn Thanh Mừng sưu tầm biên soạn, Sở VHTT Nghĩa Bình xb., 1988) có 7 bài loại này, được tập hợp dưới tên gọi Mấy dòng thơ cũ. Gần đây, trong dịp chuẩn bị kỷ niệm 100 năm sinh Bích Khê, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đọc lại sưu tập báo “Tiếng dân” và tìm được 6 bài thơ Bích Khê, trong đó 2 bài trùng với 2 bài đã có trong gọi Mấy dòng thơ cũ của tập Thơ Bích Khê (Nghĩa Bình, 1988) kể trên. Đó có lẽ là tất cả những gì thuộc số tác phẩm viết theo các thể thơ cổ của Bích Khê hiện còn giữ được.
Dưới đây, lấy lại nhan đề Mấy dòng thơ cũ, Ban biên soạn tập hợp tất cả các bài đã có ở hai nguồn kể trên; những câu chữ dị biệt sẽ được ghi chú ở cuối mỗi bài thơ.
Hy vọng là sau này sẽ có thể tìm thêm được những sáng tác của Bích Khê thuộc thời kỳ làm thơ cũ, bởi, theo các nguồn hồi ức của người thân, Bích Khê đã viết trên dưới một trăm bài thơ thuộc các thể cổ truyền.
Trên tuần báo “Tiểu thuyết thứ Năm” xuất bản ở Hà Nội, chúng tôi thấy có đăng một số bài thơ ký tên Mộng Thu hoặc Lê Mộng Thu hoặc Bích Khê Lê Mộng Thu. Có bài sẽ có mặt trong tập “Tinh huyết” khi ấy đang đưa in tại nhà in Thụy Ký, 98 Hàng Gai, Hà Nội, tuy về câu chữ có đôi chút khác biệt. Lại cũng có những bài không thấy có trong tập thơ ấy. Dưới đây là các bài thơ kể trên. Tiếc rằng sưu tập báo cũ “Tiểu thuyết thứ Năm” hiện thiếu khá nhiều nên ở đây chỉ có được 5 bài. Xin cảm ơn nhà thơ Anh Chi đã cho chúng tôi tham khảo sưu tập các số “Tiểu thuyết thứ Năm” anh hiện có.
Trong số các tác phẩm của Bích Khê, tập thơ Tinh huyết hiển nhiên là tác phẩm được biết đến rộng rãi hơn cả, giản dị là vì đây có lẽ là tác phẩm duy nhất của nhà thơ này được in thành sách ngay sinh thời tác giả, trong khi những tác phẩm còn lại phải chịu khoảng thời gian nằm trong im lặng khá lâu (tính bằng hàng mấy chục năm) mới đến được công chúng và đến công chúng chỉ với tư cách là những di cảo.
Trong “Tinh huyết” bộc lộ một xu hướng khá gần gũi với các nhà thơ tượng trưng Pháp (như Baudelaire, Verlaine): xem trọng vai trò của trực giác và vô thức trong sáng tác nghệ thuật. Lối sáng tác của khá nhiều bài trong “Tinh huyết” là lối sáng tác tượng trưng, thường dựa vào liên tưởng, cuồng tưởng, ám thị, trực giác, thường thể hiện những cảm quan phi thực tại, siêu thực tại, và hiển hiện ra trong những dòng thơ đầy nhạc tính. Tập thơ “Tinh Huyết” được chia làm bốn phần, phần thứ nhất là “Nhạc và Lệ”, phần thứ 2 “Đẹp và Dâm”, phần thứ 3 “Cuồng và Ánh sáng”, phần thứ tư “Châu”.
Tập thơ Tinh hoa là một trong số những di cảo của Bích Khê, do thân nhân nhà thơ sưu tầm biên soạn và công bố (bản in “Tinh hoa”, Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1997). Theo nhà giáo, nhà nghiên cứu Lê Hoài Nam, người trong gia đình nhà thơ Bích Khê, thì “Năm 1944, nhà thơ đã chuẩn bị cho in tập thơ thứ hai, lấy tên là “Tinh hoa”, bao gồm những bài thơ sáng tác trong thời kỳ này, và mấy bài thơ đã có mặt trong “Tinh huyết” mà tác giả đắc ý nhất, nhưng đã được sửa chữa” (sách trên, tr. 13). Bản thảo này, hồi đầu những năm 1960 ở Sài Gòn, bà Lê Thị Ngọc Sương chuẩn bị đưa in nhưng đành bỏ dở vì bà bị chính quyền Việt Nam cộng hòa truy tố. Một phần thơ “Tinh hoa” được thông tin khá kỹ trong cuốn “Đời Bích Khê” (Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971) của Quách Tấn. Chỉ đến 1997, nhân 50 năm mất Bích Khê, cũng là dịp di sản thơ mới được giới thiệu rộng rãi nhân kỷ niệm 60 năm bùng nổ phong trào thơ mới (1932-45), bà Ngọc Sương mới chính thức công bố tập Tinh hoa của nhà thơ Bích Khê. Tập thơ gồm 50 bài, trong đó có gần 10 bài vốn có trong tập Tinh huyết, nhưng được chính tác giả Bích Khê sửa lại theo cảm hứng thời viết các bài trong Tinh hoa, như lời giải thích của thân nhân nhà thơ. Dưới đây in lại toàn bộ 50 bài trong tập, đúng như bản in 1997 kể trên.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.