• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
 
NGUYỄN VIỆT CHIẾN... CƯỜI

NGUYỄN VIỆT CHIẾN... CƯỜI



Nguyễn Việt Chiến

  

   Thời đất nước gian lao    

 

 

Chúng đã ngủ cả rồi

những con hươu bị bóng đêm săn đuổi

chúng đang gác cặp sừng lên vầng trăng cuối tháng

rồi nằm mơ về một cánh rừng

không có thuốc đạn và súng săn

 

Họ đã ngủ cả rồi

những người lính bị chiến tranh săn đuổi

họ nằm mơ gặp lại bầy hươu

gác sừng lên người bạn vô danh

trên cánh rừng đã chết

 

Chỉ còn lại vầng trăng và giấc ngủ

chỉ còn lại dấu vết cuối cùng của bầy hươu bị săn đuổi

chỉ còn lại câu thơ thầm lặng

về những người đã ra đi

 

Chỉ còn lại những gì không còn lại

bởi người  đau đớn nhất sau chiến tranh

không ai khác ngoài mẹ của chúng ta

những đứa con không trở về

hoà bình dưới mưa phùn

được đắp bằng cỏ non và nước mắt

 

  *

*   *

 

Đêm đêm

những người con ngỡ đã đi thật xa

đang lặng lẽ trở về

họ lẫn vào gió vào sương đêm

không cần an ủi

họ chẳng ồn ào như lời ca sôi sục ngày ra đi

 

Họ còn nguyên tuổi trẻ

những người lính chưa tiêu phí một xu mơ ước

chưa tiêu hoài một đồng thanh xuân

 

 

Họ trở về tìm lại

trang sách học trò đêm đêm còn thao thức

trên  cánh đồng tiếng Việt ngàn năm

 

Mẹ lại thấy chúng con về

như cánh cò tuổi thơ lưu lạc

đã bao ngày phải xa rời thôn ổ yêu thương

chúng con trở về tìm lại

giọt nước mắt xót xa và đắng cay của mẹ

 

Một bên là núi sông ngăn cách

còn bên kia là bóng đêm chiến tranh

vẫn biết đạn bom không có mắt

vẫn biết hận thù không thể phân biệt nổi

đâu là hoa sen và đâu là bùn tối

nhưng các anh vẫn phải ra đi

 

Các anh phải ra đi

lời ru chùa Tây Phương

những La Hán mặt buồn

người thợ mộc xứ Đoài

lấy thân xác hom hem của mình làm mẫu vẽ

ba mươi sáu dẻo xường sườn

réo rắt tấu lên bản đàn tam thập lục

người gẩy đàn thì đau đớn

mà bản nhạc viết cho đàn lại reo vui

 

  *

*   *

 

Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm đạm

những ngày dài nghèo đói quắt quay

Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu tháng

Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao gầy

 

Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại

lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới đêm hôm

Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu

nuôi lớn những người con

rồi gửi tới chiến trường

 

Mẹ đã khóc lúc rời ga Hàng Cỏ

những đoàn tầu hun hút tuổi hai mươi

một thế hệ hồn nhiên không biết chết

chưa từng yêu khi gục ngã cuối trời

 

Mẹ ở lại với sông Hồng tần tảo

áo phù sa lam lũ tháng ngày

câu quan họ cất trong bồ thóc cũ

sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…

 

  *

*   *

 

 

Tàu xuyên đêm

tiếng gió xé bánh xe lăn quần quật

đêm nay họ trở lại một thời gian lao

đường vào Nam hun hút những chuyến tầu

máu rất đỏ tuổi hai mươi nằm lại

câu hát bảo:

tuổi hai mươi những người đi trẻ mãi

câu thơ bảo:

đất nước hình cánh võng mẹ ru ta

 

Và ở hai đầu đêm võng mắc dọc rừng già

trăng cũng sốt rét rừng như ta sốt

trăng mất máu như bạn ta thủa trước

dọc cánh rừng na-pan

 

Sông Thạch Hãn

nước mùa này còn ấm

và các anh trong suốt

những người hy sinh thời gian lao

 

Mây Quảng Trị

mùa này vẫn một mầu huệ trắng

trên Cổ Thành

như  ngày các anh ngã xuống

những người hy sinh thời gian lao

 

Và mưa gió Trường Sơn

mùa này vẫn tắm gội

những người con nằm lại

thời đất nước gian lao

 

 

Những cánh rừngcuối thu ngủ dưới mưa phùn

đất nước tôi những người nằm trong đất

chất phác như bùn hồn nhiên như cỏ

buồn đau không còn thở than

 

Những ngọn sóng đất đai lưu giữ mọi thăng trầm

người chép sử ngàn năm là bùn đất

kiên trì và nhẫn nại

máu của người là mực viết thời gian.        

                                                                     
                                       

                   LỜI BÌNH CỦA THANH THẢO:

                                                           

                                                                     NGUYỄN VIỆT CHIẾN…CƯỜI

 

Tôi ít thấy một nhà thơ Việt nào lại có cái cười hồn nhiên, trong trẻo và…ngây thơ như cái cười của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến. Anh bây giờ đã là “người nổi tiếng”, “người của công chúng” rồi, nhưng không vì thế mà Chiến thay đổi bất cứ cái gì, nhất là thay đổi…nụ cười. Vẫn cái cười tuếch toác đó, nó làm “lộ” hết tâm hồn Nguyễn Việt Chiến, một nhà thơ đa cảm, đa mang và cũng đa…sự. Ngay khi Chiến thoát khỏi “nạn tai”, tôi nhìn bức ảnh anh chụp với bạn bè đón anh ở Hà Nội, đã thấy Chiến…cười rồi. Vẫn cái cười không thể lẫn với bất cứ ai đó. Nụ cười đã giúp anh bền lòng trong gian nan, và khiêm nhường trong hạnh phúc. Đó là một nụ cười hơi đặc biệt, vì nó nở trên một gương mặt nhiều khắc khổ. Giống như đóa hoa dại nở trên mảnh ruộng làng dọc ngang những đường cày. Gương mặt của Chiến khắc khổ thật, một gương mặt cố dấu nỗi buồn, một gương mặt lẽ ra sẽ còn…khổ hơn, nếu, vâng, nếu anh không có nụ cười “thương hiệu Nguyễn Việt Chiến” đó. Tôi trước đây chỉ đọc thơ của Chiến, và anh em quen nhau qua…điện thoại, qua email, chứ cho tới khi Chiến lâm nạn, tôi chưa được một lần gặp anh. Nhưng nhiều khi trong cuộc đời này, chẳng cần gặp cũng cứ yêu quí nhau như thường. Trước, tôi quí mến Chiến vì những bài thơ của anh, những bài báo của anh, sau này tôi lại yêu quí Chiến bội phần vì nhân cách của anh, niềm tin của anh. Tôi cảm được cái “phần cứng” trong nhà thơ cựu quân nhân này, và đó là “phần cứng” của một người thẳng ngay, yêu nước, cái phần không thể thay đổi dù trải qua phong ba. Bây giờ thì chúng tôi đã gặp nhau nhiều mỗi khi tôi ra Hà Nội, anh em lại có dịp ngồi bù khú với nhau bên cốc bia. Chiến lại…cười, và tôi thích, tôi đồng cảm với nụ cười trẻ thơ này, có lẽ vì tôi cũng hồn nhiên gần như Chiến, và cũng hay cười toác loác không biết dấu diếm hay che chắn, như Chiến. Chơi với những người ngay thật thì quả là hạnh phúc. Ta không cần có bất cứ sự phòng ngừa hay rào đón nào. Ta cứ ào ào mà chơi mà thổ lộ tâm tình, rồi ai lại về việc của người ấy. Lâu lâu gặp nhau là thấy vui, xa nhau cũng nhớ nhớ. Ở tuổi tôi, thường người ta thích hồi ký, riêng tôi lại cứ thích những chuyện mới xảy ra, đang xảy ra, và cố gắng cảm thấy những gì…sẽ xảy ra. Cũng chỉ để cho…vui, vậy thôi! Có lẽ vì thế mà tôi thích tạng người như Nguyễn Việt Chiến. Thích người, rồi thích cả thơ của người ấy. Bài thơ “ Đất nước thời gian lao” của Nguyễn Việt Chiến vừa được giải B cuộc thi thơ Tạp chí văn nghệ quân đội. Nhiều người nói với tôi, bài thơ ấy giải A mới xứng! Tôi…cười, một nụ cười gần giống nụ cười của tác giả bài thơ. Và tôi biết, nếu nghe câu ấy, Nguyễn Việt Chiến cũng sẽ…cười, như vậy. Một nụ cười hồn nhiên, nhưng tách bạch cả “phần cứng” và “phần mềm”. “Phần cứng” là những gì không thể thay đổi trong anh, còn “phần mềm” là cách ứng xử luôn nhẹ nhàng và đằm thắm của Nguyễn Việt Chiến:

                            “ Mẹ ở lại với sông Hồng tần tảo

                               Áo phù sa lam lũ tháng ngày

                               Câu quan họ cất trong bồ thóc cũ

                               Sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…”

Tôi dừng lại rất lâu ở câu thơ cuối: Sông Cầu trôi như một tiếng thở dài…Không phải dễ để có câu thơ đó.

                                   Mẹ đã sống dưới mưa phùn ảm đạm

                                những ngày dài nghèo đói quắt quay

                                Mẹ thiếu sữa sinh đứa con thiếu tháng

                                Tổ quốc xanh xaoTổ quốc hao gầy

 

                                Mẹ có mặt trong dòng người nhẫn nại

                                lặng lẽ xếp hàng từ mờ sớm tới đêm hôm

                                Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu

                                nuôi lớn những người con

                                rồi gửi tới chiến trường

 

Có người sẽ nói với tôi: những câu thơ này cũng bình thường thôi mà! Thì đúng thế! Đây là những câu thơ hết sức bình thường, hết sức giản dị, nó giản dị như “ Mẹ lần hồi thời cơm tem gạo phiếu/nuôi lớn những đứa con/rồi gửi tới chiến trường/” Cái bình thường ấy, cái có vẻ như “tự nhiên” ấy khiến ta chết nghẹn ! Đây là bài thơ mà phải đọc nó bằng tấm lòng yêu nước thương dân thì mới vào được chiều sâu ngỡ bình dị của nó. Có thơ nông cạn bẩm sinh, có thơ lừa ta bằng sự sâu sắc “dỏm”-thực chất là nông cạn và sáo rỗng. Nhưng cũng có thơ đánh lừa ta bằng sự đơn giản bên ngoài. Ta phải bình tĩnh đi qua sự giản đơn đó, và thấy…

                               “ một thế hệ hồn nhiên không biết chết

                                 chưa từng yêu khi gục ngã cuối trời”

Bởi một điều đơn giản: nếu biết chết, chết nhiều như vậy, chết như không như vậy thì chưa chắc đã dám đi chiến trường! Thế hệ chúng tôi hồi đó hồn nhiên lắm, mà cũng chả nghĩ ngợi gì nhiều! Tôi chợt nhớ, mới đây, tại một hội nghị văn học, một nhà thơ nổi tiếng hơn cả thơ mình, đã từng viết một câu đánh giá thế này về một  truyện vừa của một nhà văn thế hệ chống Mỹ: truyện ấy cũng thường thôi! Nhà văn kia đã nói lại, cũng một cách đơn giản: ông thử viết được như thế đi! Có thể cái truyện vừa ấy chưa phải là một kiệt tác, nhưng đó là một truyện rất hay, và cái quan trọng hơn, “ông” có biết nó được viết ra trong hoàn cảnh nào không ? Chả ai muốn có cái “hoàn cảnh” khốn khổ như thế, chết tiệt như thế để viết tác phẩm cả! Nhưng nó đã có, và phải chấp nhận nó để sống còn và viết. Nguyễn Việt Chiến hiểu được điều này bằng chính thơ của anh, chứ không phải bằng những lời đãi bôi, nghe qua rồi bỏ. Được như thế là chúng tôi mừng lắm rồi!



Tin tức mới
♦ NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU' (19/08/2025)
♦ THƠ NGUYỄN DOÃN VIỆT - NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐI VỚT TRĂNG ĐÊM (19/08/2025)
♦ ẤN TRỜI NIÊM GIỮ MIỀN THƯƠNG -Tản văn VÂN ĐAM (19/08/2025)
♦ 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP (19/08/2025)
♦ CHÙM THƠ VÕ VĂN HÂN - MẪU HỆ TRUYỀN THỪA ÂM ĐIỆU BU NOONG ()
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1729443
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 51630
Truc tuyen Trực tuyến: 6

...

...

Designed by VietNetNam