Phần này bàn về cách dùng chên đơng thời các LM de Rhodes và Maiorica sang truyền đạo ở An Nam cho đến thế kỉ XX. Dựa vào một số văn bản, bài viết nhỏ này đề nghị một cách giải thích tại sao chân đăng lại xuất hiện ở mãi tận những hòn đảo thuộc thực dân Pháp ở Thái Bình Dương. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là ba tác phẩm của LM de Rhodes soạn: cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false . Các chữ viết tắt khác là HV (Hán Việt), CNNAGN (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa), NCT (Nguyễn Cung Thông), TVGT (Thuyết Văn Giải Tự/khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), TV (Tập Vận/1037/1067), TNAV (Trung Nguyên Âm Vận/1324), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TViB (Tự Vị Bổ/1666), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), KH (Khang Hi/1716), P (tiếng Pháp), ĐNQATV (Đại Nam Quấc Âm Tự Vị), A (tiếng Anh), L (tiếng La Tinh), PG (Phật Giáo), CG (Công Giáo), VN (Việt Nam), CQN (Chữ Quốc Ngữ), TQ (Trung Quốc), BK (Bắc Kinh), NC (Nouvelle Calédonie - Tân Thế Giới), thế kỉ (TK). Tương quan ngữ âm HV và Việt ghi trong bài không nhất thiết khẳng định nguồn gốc Việt hay Hán Cổ của chúng, cần nhiều dữ kiện hơn để thêm chính xác. Trang/cột/tờ của VBL được ghi xuống để người đọc dễ tra cứu thêm. Các cách đọc phiên thiết trình bày theo thời gian (lịch đại): từ thời Hán đến thế kỉ XVII (Tự Vị, Chính Tự Thông) cho đến giọng BK hiện nay so sánh với các phương ngữ khác cũng như âm HV (đồng đại). Dấu hoa thị * đứng trước một âm cổ phục nguyên (reconstructed sound), không nên lầm thanh điệu hay chỉ số đứng sau một âm tiết và số phụ chú.
1. Bối cảnh tổng quát
Từ thập niên 1840, dân chúng tứ xứ đã đua nhau vào bang California (cơn sốt vàng California/California Gold Rush) hi vọng sẽ làm giàu nhanh chóng từ châu Mỹ. Ở châu Úc vào thập niên 1850, nhiều sắc dân cũng đổ xô về các thành phố nhỏ như Ballarat, Castlemaine, Clunes, Bendigo (bang Victoria) và Orange (bang New South Wales) để tìm vàng. Cho đến thời Pháp thuộc (1887-1945) thì nước Pháp cũng nổi "cơn sốt kim loại" phục vụ cho kỹ nghệ và quân sự, lần này thì là kền (nickel ~ niken) và chrome (crom, crôm) trong nhiều mỏ lớn đã tìm thấy ở thuộc địa Nouvelle Calédonie (New Caledonia/A, Pháp đã chiếm đóng[2] từ năm 1853). Để giải quyết vấn đề thiếu thốn nhân công, Pháp đã chở các phu mộ từ Nhật, Trung Hoa, Nam Dương và Việt Nam/Đông Dương đến NC (đều nằm trong vùng hoạt động của tàu Pháp). Nhân công, danh từ dùng trong một số văn bản CQN là ‘người cu-li’, từ VN lại đến từ Côn Đảo (tội phạm) hay thường từ Bắc Kỳ do tình hình kinh tế địa phương khá khó khăn. Các hợp đồng làm việc thường ký cho năm năm, đây cũng là những trường hợp xuất khẩu lao động đầu tiên từ VN - xem hình chụp bên dưới từ trang https://www.youtube.com/watch?v=3JYsInKlZu4