TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
TỪ VĂN HỌC CHỐNG MĨ ĐẾN VĂN HỌC ĐỔI MỚI
TỪ VĂN HỌC CHỐNG MĨ ĐẾN VĂN HỌC ĐỔI MỚI
Bùi Việt Phương
Văn học chống Mĩ chứa đựng sự đa dạng về nhiều phương diện. Tuy nhiên, những mầm mống của một “thế nhân đa sự” trong mười năm sau giải phóng ở miền Bắc và đặc biệt là cá tính sáng tạo đã giúp các nhà văn có những bước đột phá.
Mặc dù nguồn cảm hứng về chủ nghĩa anh hùng vẫn còn dư âm với một quán tính lớn.Nhưng thật sự, văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã hoàn thành xuất sắc và kết thúc sứ mệnh lịch sử của mình khi bước sang giai đoạn Đổi mới. Trong đó, phải kể đến những đóng góp của văn học Việt Nam từ sau 1954 đến 1975, khi vừa có sự đa dạng về thể tài, phong cách, vừa mới mẻ bởi ít nhiều đã mang những đặc tính của của đời sống thế sự thời bình miền Bắc vào cuộc kháng chiến chung của toàn dân tộc. Minh chứng cụ thể cho điều đó là những điểm nhấn tinh tế ở chính một vài tác phẩm lâu nay vẫn được coi là tiêu biểu nhất cho giai đoạn này với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn mà Mảnh trăng cuối rừngcủa Nguyễn Minh Châu là một trường hợp. Tác phẩm đã manh nha một cái nhìn nhân văn, đa chiều. Mảnh trăng cuối rừng như một vầng trăng soi tỏ cả những khóc khuất trong một tâm hồn đầy phơi trải.
Hiển nhiên, môt tác phẩm tiêu biểu nhất cho khuynh hướng sáng tác của giai đoạn cũng sẽ nơi bộc lộ đầy đủ nhất những hạn chế tất yếu của khuynh hướng sáng tác ấy trong một hoàn cảnh rất cụ thể. Nhận xét của nhà phê bình N.I. Niculin: “Niềm tin vào tính bất khả chiến thắng của cái đẹp tinh thần, cái thiện đã được khúc xạ ở chỗ, anh đã tắm rửa sạch sẽ các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng…” đã đóng đinh cho một loại truyện vốn đã đóng khung về cách trần thuật. Nhưng, Mảnh trăng cuối rừng đâu phải chỉ có thế. Với ý thức sâu sắc về sở trưởng của truyện ngắn, tác giả đã tạo ra chiều sâu của tình huống truyện bằng nhiều lớp nghĩa khác nhau. Từ một tình tiết rất thực trong hoàn cảnh gấp gáp và thiếu thốn trong chiến tranh nên Nguyệt và Lãm không biết mặt nhau để cả hai đành phải trưng diện cái diện mạo tâm hồn thành thật nhất. Dẫu khi cả hai nhân vật đã thực sự khâm phục và cảm mến nhau thì lại nảy sinh một hoàn cảnh éo le hơn: Người đang bên cạnh mình đâu phải cô Nguyệt, đâu phải là anh Lãm mà mình gửi trọn tình yêu. Nhưng cũng không phải vì thế mà Nguyệt không dám che chở bom đạn cho Lãm (Tôi vừa kịp nhận ra mình đang đứng giữa một cái khe chỉ vừa một người hai bên là hai gốc cây to. Nguyệt đang nấp ở mé ngoài.); và Lãm cũng đã dành cho cô gái dám xả thân vì một tình cảm thật sự, bất chấp bóng hình cô gái xa xôi mờ nhạt mang tên Nguyệt kia (Thú thực, lúc ấy trong lòng tôi dấy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn cảm phục).
Nhưng, điều đáng nói nhất, khi xây dựng các nhân vật của mình, Nguyễn Minh Châu đã không quên hé lộ góc tối trong con người Lãm: Anh không dám tự phá bỏ lớp vỏ khô cứng lạnh lùng của mình để hỏi cho ra nhẽ người bạn đồng hành trên tuyến đường. Tất cả mới chỉ dừng lại ở:
“À, quên, tôi chưa kịp hỏi tên cô đấy nhé.
- Em là... Nguyệt !
- ...À thế...!
Tôi vờ như không, vội đưa mắt ngắm cô gái một lần nữa thật kỹ lưỡng.
mời một cô gái lên ngồi trong buồng lái”
Và tiếp sau đó là: “Lòng tôi rối như tơ vò. Chẳng lẽ lại đi hỏi thăm cô ta có biết chị Tính hay không? Chỉ cần hỏi thế, mọi sự sẽ vỡ ngay, nhưng tôi vẫn không muốn hoặc không dám hỏi. Tôi không muốn đi sâu vào câu chuyện riêng giữa chuyến công tác”. Những hiểm nguy của bom đạn trong tác phẩm này dường như chỉ đứng hàng thứ hai về độ gay cấn, về khả năng tạo ra sự hồi hộp, lối cuốn người đọc. Đứng hàng thứ nhất làsự gay cấn ở những lần cả hai suýt lộ diện như thế. Phải chăng, con người luôn thực hiện đúng kỉ luật thời chiến khi anh tự thú: Thú thật, trong đời lái xe của tôi, chưa bao giờ tôi mời một cô gái lên ngồi trong buồng lái, khi đứng trước ngưỡng cửa của cuộc gặp gỡ vẫn đề cao cái thể diện, tự trọng cứng nhắc kia để rồi sau đó để lại cho người đọc sự luyến tiếc. Để rồi, sự cứng nhắc, có phần trịch thượng mà nhút nhát đó sẽ bị phá vỡ, tự rạn nứt khi chúng ta gặp lại những: nhiếp ảnh gia Phùng (Chiếc thuyền ngoài xa), gặp lại Nhĩ (Bến quê), hay ông họa sĩ thành danh trong Bức tranh… Họ cứ có cái lí rất riêng để trốn tránh cái bổn phận phải chân thật để rồi phải sớm muộn phải trả giá. Có lẽ, Nguyễn Minh Châu không có nhiều nhân vật trở đi trở lại trong cái nhìn liên văn bản. Ấy vậy mà ta vẫn tìm ra những đặc tính chung với những mối liên hệ vừa tương đồng vừa tăng cấp như thế.
Văn học chống Mĩ chứa đựng sự đa dạng về nhiều phương diện. Tuy nhiên, những mầm mống của một “thế nhân đa sự” trong mười năm sau giải phóng ở miền Bắc và đặc biệt là cá tính sáng tạo đã giúp các nhà văn có những bước đột phá.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.