TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
THÁNG CHẠP QUAY NGHIÊNG NHỚ BỬU CHỈ
THÁNG CHẠP QUAY NGHIÊNG NHỚ BỬU CHỈ
Đinh Cường
Tạ từ tháng Chạp quay nghiêng
Âm trang sử lịch thu triền miên trôi (Bùi Giáng)
Ngày 9-12-2002
Email cuối cùng Bửu Chỉ gởi: “Bây giờ mình ban ngày làm việc theo cảm hứng, tối ngủ theo ý thích. Nghĩa là thường ngủ khuya lắm. Chừ bên ngoài lạnh và ẩm ướt lắm, vừa trở gió mùa Đông Bắc… Ông còn mang tượng Phật mình tặng không? Mang đi, tốt lắm…”.
Tôi trả lời, hỏi Chỉ đã chuẩn bị cho ngày 20 tháng 12 đi Sài Gòn chưa, đã lo xong cuốn sách chưa. Chỉ đang chọn tranh, dessins và bài viết cho vào đĩa để chuyển cho Công ty Phương Nam, in sách hội họa khổ lớn. Sau đó, còn tính tổ chức bày tranh tại Huế và Đà Nẵng khi sách in xong (dự trù vào tháng 3-2003).
Cuối thư, tôi còn đùa rằng ông cái gì cũng “lắm” và nói tôi luôn đeo tượng Phật ông tặng đây.
Ngày 10-12-2002
Sáng sớm, lái xe đi mua ly cà phê Starbucks về, mở computer không có thư bạn, thấy buồn buồn. Gần cả tháng nay, chúng tôi email hằng ngày cho nhau để biết Chỉ thực hiện cuốn sách đến đâu. Chỉ đã attach cho tôi rất nhiều tranh, dessins cũ, mới đã chọn lại để in, nhắn tôi tìm gởi mấy cái Chỉ vẽ hồi xưa, nhất là cái dessin có dặm màu vẽ tôi đội chiếc mũ len của con trai, có chóp ở trên. Chỉ nhớ mãi kỷ niệm đêm ngủ lại nhà tôi trong Thành Nội mùa đông năm xưa ở Huế… Chỉ kể chuyện ma cho các cháu nghe, chúng thích thú vô cùng.
Chỉ nói nhận xong cái dessin này là thỏa dạ rồi, không tìm thêm chi nữa…
Ngày 11-12-2002
Email Trần Thùy Mai viết: “…Anh Bửu Chỉ bị tai biến mạch máu từ trưa hôm qua, đã đưa vào bệnh viện cấp cứu. Trưa nay có đỡ một chút. Mai gửi vài dòng để anh hay tin. Có gì Mai sẽ viết thêm sau”.
Trả lời: Lâu không nhận được thư, nay có thư Mai thì lại tin dữ. Cảm ơn Mai đã báo tin sớm nhất.
Nôn nóng, bồn chồn trước tin quá bất ngờ về Bửu Chỉ. Sáng đó, chắc khi đi uống ở quán cà phê Sơn phía bờ sông về, Chỉ sẽ email cho tôi như thường lệ, nhưng sau đó lạnh chân. Vy - vợ Bửu Chỉ, phải lấy cái sấy tóc sưởi ấm hai bàn chân anh. Rồi đầu Chỉ nóng bưng, mặt đổi sắc. Được chở vào Bệnh viện Huế ngay, Chỉ còn tỉnh, đến tối thì rơi vào hôn mê…
“Om mani padme hum hri. Nam mô đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn”… Buổi sáng tuyết bắt đầu rơi nặng. Tôi ngồi im niệm thầm. Câu mà Bửu Chỉ cùng tôi niệm hôm Trịnh Công Sơn hôn mê ở Bệnh viện Chợ Rẫy, hồi tháng 4-2001.
Gọi về Huế cho Vy, người nhà nói Vy và các cháu đang ở bệnh viện, tôi lại niệm thầm cầu mong cho bạn qua khỏi.
Tranh sơn dầu cuối cùng của Bửu Chỉ, 11-2002
Ngày 12-12-2002
Email Nguyễn Văn Dũng viết: “Tôi vừa từ bệnh viện về. Tôi đã nói chuyện trực tiếp với bác sĩ Sinh - Trưởng khoa Cấp cứu hồi sức, là người trực tiếp điều trị Bửu Chỉ. Sinh cho biết tình hình “rất xấu, tối thui”.
Dũng cho số điện thoại bác sĩ Sinh. Tôi gọi về, thật may là gặp được bác sĩ. Ông nói có biết anh Chỉ, đang hết lòng cứu chữa, nhưng chưa thể nói gì thêm được. Chỉ còn có bệnh tiểu đường nên vẫn phải thở bằng máy. Tình hình có vẻ xấu lắm. Tôi nghẹn ngào. Lại thầm niệm “Om mani padme hum hri...”.
Ngày 13-12-2002
Email Nguyễn Quốc Thái viết: “TNS vừa phone cho biết Bửu Chỉ còn rất ít hy vọng, tim mạch đã có dấu hiệu trụy rồi, tới tám phần mười là không qua khỏi. Tôi viết tin cho bạn mà nước mắt ứa ra. Bức tranh mà Chỉ hẹn mang vào cho tôi mùa Giáng sinh này sẽ không bao giờ đến nữa rồi. Có gì tôi sẽ tin ngay”.
Nhớ lại hồi Trịnh Công Sơn vào bệnh viện, khi thập tử nhất sinh thì lại ra thêm nhiều thứ bệnh. Bắt đầu, Sơn đau nhức ở chân, còn Chỉ thì đau nhức ở đầu.
Ngày 14-12-2002
“Anh Cường ơi, bác sĩ đã cho đưa anh Chỉ về nhà”.
Vỏn vẹn một câu mà lạnh cả người. Thôi rồi, Chỉ ơi!
Giữa khuya về sáng, Thân Trọng Minh gọi điện thoại từ Sài Gòn báo tin Bửu Chỉ vừa mất cách đây một giờ. Tôi xem đồng hồ: gần 4 giờ sáng ở Virginia. Tôi gọi qua Pháp ngay cho Đặng Tiến rồi ngồi im sững sờ. Ngoài trời mù tăm…
Rồi thêm email Bửu Ý:
“Hình như ông biết tin rồi, nhưng mình báo tin thêm: 21 giờ hôm nay khâm liệm”.
Gọi về gặp Vy, trước giờ liệm. Vy nói cho tôi biết mặt anh Chỉ như cười.
Bửu Chỉ ra đi như vậy mà đã bảy năm. Tháng Chạp trời lạnh tăm, nhớ bạn, xem lại xấp email cũ, những bài báo cũ thấy ngậm ngùi thêm như khúc phim chiếu chậm. Càng nhớ hơn những buổi sáng ngồi cà phê Givral ở Sài Gòn với Bửu Chỉ và bạn bè thân thiết, hồi tháng 7-2002. Chỉ vẽ chân dung các bạn Trần Trọng Thức, Huy Tưởng, Nguyễn Văn Vinh. Khi vẽ tôi xong, Bửu Chỉ cởi dây tượng Phật bằng ngọc xanh, tự tay design trên miếng da và sợi dây dù đen, đeo qua cổ tôi, nói là tặng bạn trước khi về Mỹ.
Không ngờ chỉ năm tháng sau, Chỉ mất. Bửu Chỉ là người bạn chí tình nhất với bạn bè. Nói như Trần Thùy Mai: “Quyết liệt, chân thành và không bao giờ biết thỏa hiệp, anh đã sống, đã vẽ với tất cả máu từ tim mình…’’ (Thanh Niên, 16-12-2002).
Bên mộ Bửu Chỉ - Ba Đồn Huế
Đọc lại một đoạn bài viết của Trịnh Công Sơn về Bửu Chỉ: “…Không có cuộc đấu tranh nào chấm dứt. Ở bề mặt của một số ao hồ, bể sông có thể yên tĩnh nhưng những cơn cuồng nộ ở đáy sâu vẫn sục sôi một đời sống riêng. Đó là những đam mê sâu thẳm nhất của những tâm hồn muốn mãi mãi đánh thức mình, muốn mình mãi mãi là kẻ tỉnh thức để cuộc sống không còn là giấc ngủ của sấm sét…”. (Vô đề, Tranh Bửu Chỉ, Nhà xuất bản Trẻ - 2003, trang 29)
Bửu Chỉ, bây giờ thì bạn đã ngủ yên cùng Sơn, gần mười năm rồi vẫn không nguôi nỗi nhớ trong tôi. Tháng Chạp như quay nghiêng, mù tăm trong sương chiều. Tôi bỗng ứa nước mắt...
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.