TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Thi hữu
ẤN TRỜI NIÊM GIỮ MIỀN THƯƠNG -Tản văn VÂN ĐAM
ẤN TRỜI NIÊM GIỮ MIỀN THƯƠNG -Tản văn VÂN ĐAM
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 12 Tháng 8, 2025 lúc 11:28
Tôi lang thang bên bờ sông Hương giữa một chiều hanh hao nắng. Dòng sông trầm mặc, hai bên bờ, đoạn ngang qua lòng phố được bao phủ bởi những hàng cây xanh mướt. Có cảm giác, cảnh vật nơi này chuyển động nhẹ nhàng, êm đềm và kín đáo như chính con người và đặc trưng của vùng đất cố đô.
Chân bước trên đất khách, nhưng lòng tôi gửi về quê hương của mình, nơi ấy cũng có một dòng sông trong xanh chảy qua giữa lòng đô thị. Dòng sông mang nặng phù sa cùng lớp lớp vỉa tầng văn hóa và huyền thoại của một vùng đất được ví là “Thiên Ấn niêm hà” – ấn trời niêm xuống dòng sông. Dòng sông Trà thơ mộng và ngọn núi Thiên Ấn kề bên, đã trở thành biểu tượng của người dân quê tôi. Cái tên “miền Ấn Trà” là cách gọi thân thương của mỗi người con xa quê khi nhắc về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Có lẽ, chiếc “Ấn trời” kia đã niêm xuống dòng sông Trà để giữ mãi tình đất, tình người trong mỗi người con xứ Quảng.
Tác giả Vân Đam ở Quảng Ngãi
Xa quê thường nhớ đất, nhớ người. Tôi nhớ những chiều lộng gió bên dòng Trà giang. Những bờ lau trổ bông trắng xốp uốn lượn, dập dờn theo gió trông từ xa như những con sóng giỡn đùa ngoài biển khơi. Tôi không có trí tưởng tượng của một họa sĩ, nhưng bằng quan sát và sự cảm nhận, tôi đã nhận ra bức tranh hoàng hôn trên sông Trà là một tuyệt phẩm của riêng mình. Những buổi chiều tà, men theo con đường có tên “giác ngộ” leo lên ngọn núi Thiên Ấn để ngắm hoàng hôn. Từ đây phóng tầm mắt ra xa, một dòng sông trong xanh uốn lượn vắt ngang giữa lòng phố, vừa như tấm lụa trắng bởi ánh nắng chiều rọi xuống lấp loáng, lại vừa như tấm thảm ngọc bích với những vân mây điểm xuyết bởi những đám hoa lau nở trên các cồn bãi lô nhô giữa sông. Xa xa là dãy núi Đá Vách. Có lẽ, người xưa khi ngắm hoàng hôn ở điểm này mà đã nảy ra cái tên đầy chất thơ “Thạch Bích tà dương” để đặt cho dãy núi Đá Vách ấy, và rồi nó đã trở thành một trong “thập nhị cảnh” của vùng đất quê tôi.
Vùng đất Quảng Ngãi được hình thành từ khi vương quốc Chăm Pa dâng Cổ Lũy Động cho nhà nước Đại Việt vào năm 1402. Sau bao lần thay đổi theo sự thăng trầm của lịch sử, khi vua Minh Mạng lên ngôi, hình thành nên tỉnh Quảng Nghĩa, rồi đổi thành Quảng Ngãi từ thời thuộc Pháp. Khi nghĩ về những địa danh trên vùng đất quê mình, tôi liên tưởng đến câu thơ thần (được xem là của Lý Thường Kiệt):“Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, núi sông bờ cõi nước Nam đã được sách trời định rõ. Và miền Ấn Trà của tôi phải chăng cũng được “thiên định” nên đã hình thành nên ba ngọn núi nằm trong lòng một vùng địa linh.
Ba ngọn núi đều bắt đầu bằng chữ “Thiên”: Thiên Ấn, Thiên Bút và Thiên Mã. Từ trên cao nhìn xuống, ba ngọn núi tạo thành ba đỉnh của một tam giác, như thế chân kiềng bao bọc, chở che cho vùng đất thiêng, niêm giữ một vùng đất nhiều trầm tích văn hóa. Núi Thiên Ấn tựa hình một chiếc ấn, bốn phía sườn núi tạo hình thang cân. Giữa thiên nhiên thoáng đãng, ngọn núi như chiếc ấn từ trời cao niêm xuống cạnh dòng sông Trà. Trên đỉnh núi có ngôi cổ tự nép mình dưới bóng cổ thụ hàng trăm năm tuổi, được Chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch vào năm 1716. Năm 1830, ngọn núi được khắc tên vào dinh tự, năm 1850, vua Tự Đức đưa núi vào hàng danh sơn của đất nước và ghi vào tự điển. Bên cạnh ngôi chùa cổ là một giếng nước cổ, tương truyền đáy giếng thông ra tận biển. Có nhiều truyền thuyết thú vị về sự hình thành nên quần thể di tích này. Đặc biệt trên ngọn núi này, bên hàng hoa đại cổ và hàng dương liễu già nua là nơi yên nghỉ nhà chí sĩ yêu nước, quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng.
Theo sông về hướng biển, ngọn núi Thiên Mã uy nghi nằm bên bờ Cửa Đại, nơi dòng sông Trà hòa mình về với biển. Đến Thiên Mã là về với chốn tâm linh, nơi có chùa Minh Đức, có tượng Phật Quan Âm cao 125 mét, quanh năm mờ ảo trong mây trời, bên bờ biển xanh dào dạt sóng vỗ ngàn năm. Và ngọn núi thiêng Thiên Bút, biểu tượng của văn phong, sĩ khí của con người Quảng Ngãi, nó được gọi với mỹ từ “Thiên Bút phê vân”. Khi hoàng hôn buông xuống, ngọn núi như ngọn bút vẽ lên mây trời tạo nên những ánh hào quang như lụa đỏ, xếp tầng lên nhau… Giờ đây, trên ngọn núi thiêng này vẫn còn những dấu tích của văn hóa Chăm Pa xưa, lưu giữ nền văn minh rực rỡ của một thời vẫn còn nhiều điều khơi gợi.
Không gian địa lý quê tôi giờ đây được mở rộng hơn, núi bạt ngàn hương, biển nghìn trùng sóng. Người dân quê tôi truyền nhau rằng, xứ này, nơi có Ấn, có Bút và có hùng binh chiến Mã của Trời, thì muôn đời thịnh trị, sĩ khí và ngoan cường. Ấn trời đã niêm xuống dòng sông Trà, chính là cương vực đã định, thế núi hình sông đã thành, nghĩa tình đã vẹn. Trải qua những biến thiên của lịch sử, tên đất, tên làng dẫu có đổi thay, thì cũng chỉ bồi đắp thêm cho nền văn hóa đặc sắc của một vùng địa linh nhân kiệt. Để rồi, những vỉa tầng văn hóa của một miền thương sẽ mãi mãi niêm chặt nơi này.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.