TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Diễn đàn lý luận
HAI THỂ THƠ MỚI: NAMKAU VÀ 1-2-3 TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC THỂ THƠ MỚI CỦA DÂN TỘC
HAI THỂ THƠ MỚI: NAMKAU VÀ 1-2-3 TRONG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÁC THỂ THƠ MỚI CỦA DÂN TỘC
NGUỒN: Vanvn- Cập nhật ngày: 14 Tháng 10, 2025 lúc 19:54
PGS-TS Trần Thị Trâm ở Hà Nội
Khoảng mươi năm gần đây, trên thi đàn Việt xuất hiện hai thể thơ mới: Namkau và 1-2-3. Là sản phẩm của thế kỷ công nghệ số, những thể thơ này còn đang ở thời kỳ phôi thai trứng nước.
Thể thơ Namkau với những ước mơ dang dở
Thể thơ Namkau do Trần Quang Quý (1955 – 2022) khởi xướng, với tập Namkau đầu tiên xuất bản vào năm 2016. Cho đến khi ra đi, thi sĩ đã để lại 3 tập thơ: Namkau (NXB Hội Nhà Văn 2016), Ướp nhớ (NXB Hội Nhà Văn, 2020), Những sắc màu đa thức (NXB Hội Nhà Văn, 2022). Câu lạc bộ thơ Namkau do anh làm chủ nhiệm cũng lần lượt công bố hai tập: Khúc dạo con đường 1 (Nhiều tác giả, NXB Hội Nhà văn, 2020), Khúc dạo con đường 2 (NXB Hội Nhà văn, 2023). Ngoài ra, còn có một số hội viên Namkau như: Nguyễn Xuân Đạt, Đặng Quốc Việt, Dương Văn Lượng, Phạm Thị Hồng Thu, Song Hà đã xuất bản tập thơ riêng về thơ Namkau.
Nhà thơ Trần Quang Quý (1955 – 2022)
Về thể thức, mỗi bài thơ Namkau (năm câu) bắt buộc chỉ có năm câu, số chữ trong mỗi câu không hạn định. Thơ Namkau có thể có hai hình thức: thơ Tự do và thơ Lục bát. Nếu là thể thức Lục bát thì phải kết thúc ở câu lục. Về cấu trúc, bài thơ Namkau chia hai phần. Phần thứ nhất (3 câu đầu của thơ Tự do hoặc 4 câu đầu của thể Lục bát) có tính “trình” và “diễn” cảm xúc, ý tưởng về vấn đề tác giả quan tâm, muốn gửi tới bạn đọc. Hai câu cuối thể Tự do và câu lục thể Lục bát là “kết” và “nghiệm”, tức là rút ra bài học kinh nghiệm về cuộc sống cũng như những triết lý nhân sinh bổ ích. Ví dụ 1 bài Namkau của nhà thơ Trần Quang Quý thể Tự do có tên: Cảm thức
Mùa thu giặt những đám mây trắng
phơi lang thang bầu trời
Vắt ngang gió một lườn sông sóng sánh
Trong bình minh chợt nhú
Ban mai vừa cởi cúc mùa thu
Nhưng năm 2022, tác giả Trần Quang Quý đã vĩnh viễn ra đi để lại những ước mơ dang dở và sự nuối tiếc của bao bạn yêu thơ.
Thể thơ 1-2-3 ngày càng khẳng định chắc chắn vị thế
Thể thơ 1-2-3 do Phan Hoàng khởi xướng, xuất hiện trên Báo Văn Nghệ năm 2018, sau đó được nhiều tác giả hưởng ứng rồi lan tỏa khá mạnh, hiện nay đang trên đà phát triển và ngày càng khẳng định chắc chắn vị thế của mình.
Thơ 1-2-3 đã được nhiều người trong và ngoài nước thử nghiệm và bước đầu đã tạo được tiếng vang. Có thể kể tới các tập thơ sau: Lối sen sương, Ủ hồng bếp lửa (Vũ Thanh Thủy), Những cánh hoa mở đêm (Phạm Thị Phương Thảo), Thủ thỉ phù sa (Nguyễn Đinh Văn Hiếu), Vọng núi (Trần Nguyệt Ánh), Hạt sương ngủ gối cánh đồng (Phạm Thế Chất), Hoa rong mùa bấc (Trần Nhã My), Những ký tự xê dịch (Trần Thanh Dũng), Hãy nhìn vào mắt bão và tin lời đắng cay (Tạ Hùng Việt), Thị à thị ơi (Phạm Thị Hồng Thu), Ban mai thơm mắt nắng (Vũ Trần Anh Thư), Những đóa hoa khẽ hương (Bùi Thanh Hà), Phong hờ hơi ấm (Hoàng Hải Phương), Sương khói bên trời (Võ Văn Trường), Trong cơn mê của lửa (Bảo Ngọc), Vụn và lành (Nguyễn Tiến Nên), Tiếng vọng thời gian (Lương Sơn), Nước mắt đã khô trên dòng sông trắng (Nguyễn Hồng Linh), Trải và nghiệm (Thanh Yến)…
Hơn 20 tập thơ 1-2-3 của các tác giả trong và ngoài nước đã được xuất bản
Với thể thơ 1-2-3, mỗi bài là một chỉnh thể độc lập gồm 3 đoạn 6 câu. Đoạn 1: 1 câu, tối đa 11 chữ (cũng là tên bài thơ). Đoạn 2: 2 câu, mỗi câu tối đa 12 chữ. Đoạn 3, 3 câu, tối đa mỗi câu 13 chữ. Nội dung chủ yếu đi từ ngoại cảnh vào nội tâm. Từng câu thơ luôn có mối tương quan với toàn bài, giữa câu 1 và câu 6 có tính hô ứng làm cho nội dung bài thơ chặt chẽ, thống nhất trong 1 không gian thẩm mĩ riêng biệt. Cách gieo vần tự do, không bị gò bó như thơ truyền thống… Nhìn chung, thơ 1-2-3 ngắn gọn, hàm súc, bỏ kể tả rườm rà, có tính triết lý cao. Cấu trúc, câu chữ chặt chẽ nhưng nội dung không bó buộc mà phóng khoáng, không cần đăng đối.
Xin giới thiệu một bài thơ thể 1-2-3 của nhà thơ Phan Hoàng in trên Tạp chí Prodigy (Mỹ):
Sống lại giấc mơ trên đồi chim sẻ
Mặt trời dừng ngôi sao đỉnh tháp trường Lomonosov
Luzhniki cỏ tươi nguyên không khí lễ hội bóng đá hành tinh
Xanh biếc sông in Moskva tráng lệ thu tầm mắt
Đường thoai thoải tuổi xuân chim hót xuyên rừng
Khởi hành giấc mơ tri thức ba mươi năm ta mới gặp mình.
Nhà thơ Phan Hoàng (giữa) và đồng nghiệp trên poster tại Tọa đàm “Thơ 1-2-3 trong không gian văn học đương đại” do Hội Nhà văn phối hợp Trường Đại học Cần Thơ tổ chức ngày 6.11.2024.
Tầm quan trọng của những thể loại mới trong tiến trình lịch sử văn học
Vẫn biết, hai thể thơ Namkau và 1-2-3 mới chỉ vừa xuất hiện, chưa thể khẳng định chắc chắn chúng sẽ vận động, phát triển ra sao. Nhưng nếu nhìn lại tiến trình lịch sử văn học của nhân loại và dân tộc thì ta sẽ thấy sự xuất hiện của những thể loại mới là vô cùng quan trọng.
Bởi theo nhà triết học, nhà ngôn ngữ học, nhà phê bình văn học người Nga Mikhail Mikhailovich Bakhtin (1895 – 1975), lịch sử văn học chính là lịch sử nối tiếp nhau của các thể loại. Văn học không phát triển bằng sự lặp lại đơn thuần mà bằng sự thay thế và kế thừa giữa các thể loại. Các thể loại mới xuất hiện để đáp ứng nhu cầu nhận thức và biểu đạt mới của con người, đồng thời kế thừa, biến đổi những gì đã có từ trước. Như vậy, nhìn vào lịch sử văn học là thấy một quá trình “đối thoại” và nối tiếp của các thể loại. Đặt hai thể thơ Namkau và 1-2-3 vào lịch sử phát triển của các thể loại thơ ca dân tộc ta có thể thấy rõ điều này.
Sơ bộ khảo sát lịch sử phát triển của thi ca Việt Nam từ thế kỷ X đến nay, chúng ta thấy, nền văn học viết Việt Nam có các thể thơ dân tộc sau: Lục bát, Song thất lục bát, Hát nói, Diễn ca. Như vậy, chúng ta đã sáng tạo được 4 thể thơ dân tộc (mà chưa sáng tạo được thể loại văn xuôi nào). Có lẽ, là do người Việt nghiêng về tư duy duy cảm, có năng khiếu thơ, yêu thơ nên có truyền thống, có nền tảng và vốn liếng thơ khá dầy dặn hơn so với văn xuôi. Suốt hàng ngàn năm (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX) các tác gia tên tuổi của nền văn học Trung đại Việt Nam đều là nhà thơ: Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… Hình như chỉ mình Nguyễn Dữ – tác giả thiên cổ kỳ bút Truyền kỳ mạn lục được coi là tác giả văn xuôi (Chắc ông có làm thơ những không lưu lại bài nào).
Thực tế cho thấy, chỉ có giao lưu mới có phát triển: các thể thơ dân tộc trên ra đời trong cuộc giao lưu văn hóa với Trung Hoa. Chúng được hình thành nhờ sự gặp gỡ giữa những giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Việt với văn hóa Trung Hoa – nền văn hóa lớn của phương Đông.
Thể thơ Lục bát trong văn học viết vốn có nguồn gốc từ ca dao (ca dao Việt Nam hơn 95% thuộc thể Lục bát). Đến thế kỷ XVI, Lục bát chính thức trở thành thể loại quan trọng nhất của nền văn học viết nước nhà. Chúng tôi suy luận như vậy vì khảo sát thơ của nhà thơ lớn Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV, không thấy có bài Lục bát nào.
Trên cơ sở thể lục bát, Truyện thơ Nôm được hình thành với hàng trăm tác phẩm, chia làm 2 bộ phận là Truyện thơ Nôm bình dân và Truyện thơ nôm bác học. Thơ Nôm bình dân (khuyết danh), thường do các trí thức bình dân sáng tác, chủ yếu được viết dưới ánh sáng của quan niệm mỹ học dân gian và được truyền bá bằng con đường truyền miệng của dân gian. Tiêu biểu là: Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Tải – Ngọc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn… Truyện thơ nôm bác học do các nhà Nho sáng tác, có đề rõ tên tác giả. Ví dụ: Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Sơ kính tân trang của Phạm Thái, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Sự xuất hiện tuyệt tác Truyện Kiều (3254 câu Lục bát) của Nguyễn Du đã đánh dấu sự phát triển đến đỉnh cao của thể Lục bát với nhiều câu thơ hoàn mĩ:
– Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng
– Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Thể Song thất lục bát ra đời do sự kết hợp giữa thơ Lục bát Việt Nam với thơ 7 tiếng của Trung Hoa. Mỗi khổ Song thất lục bát gồm 4 câu: 2 câu 7 và 1 cặp 6/8:
Ngoài đầu cầu nước trong như lọc
Dưới chân cầu cỏ mọc như nêm
Xa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa , thủy khôn bằng thuyền
(Chinh phụ ngâm)
Từ Song thất lục bát đã sản sinh ra những Khúc ngâm như: Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm (Nguyễn Gia Thiều), Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Ai tư vãn (Ngọc Hân công chúa)…
Thứ 3 là Hát nói (còn gọi là ca trù). Đây là thể loại kết hợp giữa thơ và nhạc, giữa thanh và sắc, tồn tại như một nghệ thuật biểu diễn. Tác giả tác phẩm tiêu biểu: Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), Cao Bá Quát (1809 – 1855), Dương Khuê (1839 – 1902), Nguyễn Khuyến (1835 – 1909). Nổi tiếng là bài Hồng hồng tuyết tuyết của cụ nghè Vân Đình Dương Khuê: Hồng hồng, tuyết tuyết/ Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi/ Mười lăm năm thấm thoát có ra gì/ Ngoành mặt lại đã tới thì tơ liễu.
Tiếp đến là thể Diễn ca: một thể văn vần phổ biến trong văn học Trung đại, thường kể lại các truyện lịch sử, văn vần hóa một số tác phẩm văn xuôi, truyện tích, giáo lý cho dễ nhớ, dễ truyền bá (có thể gọi là dân gian hóa). Ở đây, sự gặp gỡ giữa dân gian và bác học rất rõ). Ví dụ: Thiên Nam minh giám (Lê Hy biên soạn vào thế kỷ XVII), Thiên Nam Ngữ lục (khuyết danh, thế kỷ XVII- XVIII), Đại Nam quốc sử diễn ca (Phạm Đình Toái, thế kỷ XIX), Lịch sử nước Nam diễn ca của tác giả Lê Ngô Cát, thế kỷ XIX, sau đó được Phạm Đình Toái nhuận chính… Như vậy, các thể thơ mới xuất hiện trong 10 thế kỷ văn học viết Việt Nam đều dựa trên nền tảng văn hóa dân tộc mà cụ thể là văn học dân gian (trước thế kỷ X, nước Việt chưa có văn học viết).
Điều cần bàn là, với sự ra đời của những thể thơ dân tộc, đặc biệt là Lục bát, Song thất lục bát, lịch sử văn học nước nhà đã bước sang một trang mới, đã có sự bùng nổ mạnh mẽ, với những đỉnh cao như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm… Hàng loạt tác giả lớn: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương xuất hiện, khẳng định nền văn học viết Việt Nam đã thực sự trưởng thành.
Đầu thế kỷ XX, cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây (và các nước XXHCN) không sản sinh ra những thể loại văn học mới. Nhưng cuộc giao lưu lần thứ 3 ở thế kỷ XXI dù mới chỉ diễn ra vài chục năm đã bước đầu hình thành 2 thể thơ: Namkau và 1-2-3.
Có thể nói, sự xuất hiện của hai thể thơ Namkau và 1-2-3 trong lịch sử thi ca dân tộc là tín hiệu thật đáng mừng. Hy vọng, chúng sẽ được hoàn thiện và sẽ góp phần thúc đẩy nền văn học nước nhà hội nhập sâu rộng vào nền văn hóa toàn cầu.
Vẫn biết, rất nhiều thể nghiệm mới có được một thành công. Nhưng đóng góp của những người dám sáng lập ra các thể thơ mới như Trần Quang Quý, Phan Hoàng và những người góp phần giúp cho những thể thơ thuần Việt đó ngày càng hoàn thiện như: Vũ Thanh Thủy, Phạm Thị Phương Thảo, Bùi Thanh Hà, Tạ Hùng Việt, Trần Nguyệt Ánh, Trần Thanh Dũng, Nguyễn Bá Hòa, Mai Bá Ấn, Đặng Tường Vy, Đặng Bá Tiến, Nguyễn Hồng Linh, Võ Văn Trường, Lê Đỗ Lan Anh, Trương Mỹ Ngọc, Phạm Thế Chất, Trần Nhã My, Bảo Ngọc, Nguyễn Đinh Văn Hiếu, Hà Phi Phượng, Phạm Thị Hồng Thu, Vũ Trần Anh Thư, Đoàn Hữu Nam, Huỳnh Thị Quỳnh Nga, Bình Địa Mộc, Nguyễn Tiến Nên, Huỳnh Khang, Hà Vinh Tâm, Đoàn Thị Diễm Thuyên, Võ Văn Hân, Nguyễn Quỳnh Anh, Nguyễn Đức Bá, Mai Xuân Thắng, Lê Văn Ry, Phạm Phương Lan, Lê Thanh Hùng, Thanh Yến, Lê Thị Hương, Võ Hoàng Phương, Phạm Tuyết Hạnh, Lê Trúc Quyên, Văn Diên, Nguyễn Hữu Thông, Khang Quốc Ngọc, Trần Thị Bảo Thư, Ngô Kim Đỉnh, Hà Nguyên, Đỗ Nguyên Thương, Trương Vu Giang, Trần Văn Chính, Lê Kim Phượng, Lương Ngọc Đại, Phan Minh Thoại, Vũ Khắc Tĩnh, Trần Thùy Linh, Lương Sơn, Hoài Thơ, Vũ Lệ Hương, Đoàn Hạnh, Mai Hân Hạnh, Trần Thị Thùy Vy, Nguyễn Thị Thanh Ngọc, Lê Nam Sơn, Võ Văn Thọ, Phan Thảo Hạnh, Nguyễn Trọng Lĩnh, Vũ Hà, Nguyễn Thị Lai, Phan Phương Loan, Hồ Xuân Đà, Ngô Mậu Tình, Châm Võ, Chiên Nguyễn, Vương Sỹ Thanh Chương, Lê Lệ Thủy, Phạm Đình Phú, Lôi Vũ,… quả thật rất đáng trân trọng!
PGS-TS TRẦN THỊ TRÂM
(Bài đăng Tạp chí Người Hà Nội, số 10/2025)
_________________________
Tư liệu tham khảo:
1. Dẫn theo The Dialogic Imagination (Tập tiểu luận lý luận do Caryl Emerson và Michael Holqust biên dịch, 1981)
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.