TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
PHẠM HỔ… LÀNH
PHẠM HỔ… LÀNH
thanh thảo
Tôi ít thấy nhà văn nào ở xứ ta mà lành như Phạm Hổ, dù ông mang tên chúa sơn lâm dữ dằn. Phạm Hổ lành thật! Có lần tôi nghe qua mấy bạn văn kể chuyện ông bị một học trò thất sủng vào trường viết văn N.D…đá. Chuyện là ông học trò này thi vào trường không đủ điểm đậu, ông đổ thừa do thầy Phạm Hổ chấm điểm quá khắt khe. “ Thực ra, tôi đã chấm rất nới, nhưng do bài làm của cậu ta yếu quá, cộng nhiều điểm do nhiều thầy chấm thì không đủ điểm đỗ. Chứ tôi nỡ nào đánh rớt ai, nhất là khi người ta ứng thi vào một trường viết văn, là trường chẳng mấy ai ham vào học. Cậu ta nóng ẩu quá, ra chân đá tôi một cú khá độc. May mà tôi có võ nên tránh được, chứ không khéo nguy”. Phạm Hổ quê Bình Định, nên chuyện ông nói mình có võ là chuyện thật, chứ không phải ông bịa ra để khoe hay doạ ai. Sau đó, Phạm Hổ cũng quên ngay chuyện bất kính bất nhã của người “học trò”, và ông lại hiền hoà như từ bao giờ vẫn vậy. Người hiền như thế nên Phạm Hổ làm thơ, viết truyện cho thiếu nhi có khá nhiều tác phẩm thành công. Lứa tuổi nay đã ngoại tứ tuần ngũ tuần ở miền Bắc hồi nhỏ đều đã từng đọc truyện đọc thơ Phạm Hổ viết cho lứa tuổi mình. Nhiều bài thơ của Phạm Hổ viết cho thiếu nhi vẫn có mặt trong các tuyển tập thơ, được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, và đi vào sách giáo khoa cho lứa tuổi tiểu học, trung học cơ sở. Tôi quen Phạm Hổ từ những năm 80 thế kỷ trước, nhiều lần đi chơi hay bên cốc cà phê chuyện trò với ông, càng cảm thấy con người này hiền một cách tự nhiên, hiền từ nguồn. Vì hiền như thế nên ông không phải người quyết ăn thua đủ về bất cứ cái gì. Theo cách mạng từ khá sớm, ngay sau cách mạng tháng Tám ông đã đứng trong hàng ngũ những văn nghệ sĩ cách mạng của Liên khu Năm, rồi suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, Phạm Hổ lăn lộn cùng đồng bào chiến sĩ chống giặc. Nhưng do không quá “quyết chí” nên mãi sau này ông cũng chỉ là một nhà văn không chức tước gì, một nhà thơ viết những câu thơ ấm áp ngây thơ cho các cháu, và cứ tiếp tục… hiền lành như thế. Phạm Hổ là người đọc nhiều, kiến văn rộng, uẩn súc, nhưng rất ít khi thấy ông “cao đàm khoát luận” về những đề tài văn chương chữ nghĩa hay triết học. Chỉ khi gần gũi ông, bên chén trà nóng, cốc cà phê, ông mới thổ lộ nhiều điều nghe rất thấm thía. Ông là một con hổ ẩn mình giữa thâm sơn cùng cốc của chính thân phận mình. Và “cọp chết để da, người ta chết để tiếng”, Phạm Hổ đã để lại nhiều tiếng thơm lành ngay sạch. Trong cuộc đời có được một người hiền đã là quí, có một nhà văn nhà thơ hiền còn quí hơn. Vì họ biết lan toả cái hiền của mình vào trang sách, vào bài thơ, và cái hiền từ tâm của họ sẽ đi tới với nhiều người, thuyết phục con người sống cho ngay lành. Ít nhất là không “bỗng dưng muốn…đá” vào người khác.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.