TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
MỘT TƯ LIỆU CHƯA CHẮC ĐÃ QUÝ NHƯNG CẦN LƯU LẠI
MỘT TƯ LIỆU CHƯA CHẮC ĐÃ QUÝ NHƯNG CẦN LƯU LẠI
thanh thảo
Lời tác giả: Tôi vốn là nhà thơ và nhà báo, nên quá ít khi có dịp "sáng tác" những "tác phẩm" kiểu này. Một người vốn rất sợ các cuộc kiểm điểm, dù kiểm điểm bất cứ ai, lại phải viết một bài phát biểu( thay cho bản kiểm điểm) về một tờ tạp chí( hay đặc san) là sản phẩm do mình bỏ công sức làm nên, tự mình thấy hài lòng về sản phẩm, nhưng lại khiến một số ai đó không hài lòng. Nếu những người không hài lòng chỉ là những người đọc, thì tôi sẽ hết sức phấn khởi, vì họ còn chỉ giáo cho mình để làm những sản phẩm tiếp theo tốt hơn. Tôi thực sự cầu thị. Nhưng vì đây là những quan chức lãnh đạo, sự không hài lòng của họ có thể khiến anh "tắt tiếng ca" luôn, nên buộc tôi phải có "lời thưa lại". Chuyện này xảy ra đã gần tròn 20 năm rồi, nhân sắp tới ngày kỷ niệm 20 năm thành lập Hội văn nghệ Quảng Ngãi, tôi lục lại trong đống tư liệu cũ, chợt thấy bài phát biểu này, nghĩ rằng nó chưa hoàn toàn mất tính thời sự, nên xin "giải mật" và trình trước đông đảo độc giả. Kính mong được soi xét, và xin đừng...kiểm điểm người viết bài phát biểu quá thật thà này lần nữa. Đội ơn lắm lắm!
VỀ ĐẶC SAN SÔNG TRÀ SỐ 1
(Phát biểu tại cuộc họp kiểm điểm đặc san do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Ngãi tổ chức)
Sông Trà số 1 là đặc san kỷ niệm 100 năm ngày sinh Bác Hồ và kỷ niệm 15 năm ngày Quảng Ngãi và miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đây là đặc san được xuất bản một cách hợp pháp theo giấy phép XB số: 6/BC-GPXB của Bộ Văn hóa thông tin thể thao và du lịch, được sự đồng ý của Thường vụ Tỉnh ủy thông qua Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trong cuộc họp cuối cùng ngày 03/5/1990, trước khi Tổng thư ký Hội Văn nghệ mang bản thảo đi in tại thành phố Hồ Chí Minh. Đặc san cũng được UBND tỉnh đồng ý cấp kinh phí để in, thông qua ý kiến của đ/c Phó chủ tịch phụ trách văn xã đề nghị Sở tài chính-vật giá giải quyết kinh phí. Trong cuộc họp chiều ngày 03/5/1990 do Ban Tuyên giáo triệu tập, Tổng thư ký Hội Văn nghệ đã báo cáo cụ thể về nội dung đặc san, và hôm đó không có ý kiến nào phản đối hoặc đề nghị ngừng việc in đặc san (đ/c Trưởng Ban Tuyên giáo trực tiếp chủ trì cuộc họp, đ/c Phó chủ tịch phụ trách văn xã được mời nhưng không đến dự vì lý do bận việc). Như vậy, cho đến khi Tổng thư ký Hội mang bản thảo và tiền đi in, không có ý kiến hoặc chỉ thị nào của Ban Tuyên giáo và UBND tỉnh ra lệnh hoặc gợi ý ngừng in số đặc san này. Đó là một sự thật.
Vì vậy, chúng tôi đã hoàn toàn ngạc nhiên và bối rối sau khi in xong đặc san quay về Quảng Ngãi nhận được công văn số 44/BC đề ngày 09/5/1990 của Bộ VHTT và Du lịch về việc ngừng in đặc san (Tôi xin đọc toàn văn công văn này để các đ/c xác nhận). Ngay sau đó, Hội Văn nghệ Quảng ngãi đã gửi công văn trả lời và báo cáo với Bộ về sự việc này, đồng thời gởi ngay sách lưu chiểu và sách tặng để Bộ rộng đường nghiên cứu, xét đoán và kết luận về nội dung đặc san (Tôi xin đọc toàn văn công văn của Hội, công văn này đã được gởi đến đ/c Bí thư Tỉnh ủy và đ/c Chủ tịch tỉnh để báo cáo).
Thưa các anh, các chị,
Tỉnh Quảng Ngãi mới được chia ra từ tháng 7/1989, việc thành lập Hội Văn nghệ Quảng Ngãi, cũng như việc Hội được sự giúp đỡ của lãnh đạo Tỉnh ủy và Ủy ban cố gắng ra số đặc san đầu tiên nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Bác Hồ, là nhằm đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu văn hóa văn nghệ của nhân dân tỉnh nhà, chứ tuyệt nhiên không phải là nhu cầu hay tham vọng của cá nhân bất cứ ai, trước nhất là của Tổng thư ký Hội.
Hội Văn nghệ, cũng như cá nhân Tổng thư ký (một chức vụ lâm thời do Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định trong khi chưa có điều kiện tổ chức đại hội văn nghệ bầu cử dân chủ) đã và sẽ không bao giờ sử dụng cơ quan ngôn luận hợp pháp của mình để tuyên truyền kích động chống Đảng, chống CNXH, chống nhân dân và Tổ quốc. Tất nhiên, nếu chúng tôi vi phạm, sẽ có pháp luật (thông qua luật báo chí) trừng trị. Vì vậy, khi in đặc san Sông Trà số 1, chúng tôi có thể tự hào báo cáo với quí anh chị rằng: đặc san này có nội dung trong sáng, lành mạnh, bổ ích, có hình thức đẹp, trang nhã, và đó không phải là ý kiến tự nhận xét chủ quan của chúng tôi, mà là ý kiến của đông đảo những người đã được tặng và đã đọc đặc san, trong số đó có nhiều cán bộ cách mạng lão thành, những đồng chí đã về hưu, cũng như của bè bạn xa gần.
Về nội dung đặc san: Tôi xin làm một thống kê có tính chất số lượng để các anh chị tạm hình dung về tỷ lệ những bài viết kỷ niệm 100 năm ngày sinh Bác Hồ cũng như những bài viết về sự đổi mới trên quê hương Quảng Ngãi sau 15 năm giải phóng: - Ngoài bức thư đặc biệt xúc động của Cố vấn Phạm Văn Đồng được trân trọng in lên đầu đặc san (xem bản scan bức thư in kèm đây), thì đã có 11 bài viết về Bác Hồ chiếm 25 /96 trang đặc san, trong đó có nhiều bài viết rất sâu sắc của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trên thế giới, cũng như có những tư liệu quý (như hồi ký của nữ nghệ sĩ Kim Nhớ, người dân tộc H’Rê về những lần được hát cho Bác Hồ nghe…) – Và có 09 ảnh Bác Hồ. – Về những bài viết nói lên sự đổi mới của quê hương Quảng Ngãi: đã có 15 bài được in trong đặc san này, chiếm 28/96 trang đặc san. Và đã có những bài bút ký về vùng cao Quảng Ngãi đến vùng biển Quảng Ngãi, trong khi biên chế chuyên môn của Hội Văn nghệ là… 02 người.
Tất nhiên, nói tới nội dung không phải chỉ đơn thuần nói về só lượng, mà phải nói tới chất lượng bài viết. Về vấn đề này, chúng tôi mong có một cuộc hội thảo rộng rãi để những người đã đọc đặc san được phát biểu công khai ý kiến của mình. Ở đây, chỉ xin báo cáo với các anh chị: khá nhiều bài đã in trong đặc san này đã và sẽ được một số tờ báo Trung ương và Đài Tiếng nói Việt Nam sử dụng lại, nhất là những bài của những cây bút Quảng Ngãi viết về quê hương mình. Tôi thiết nghĩ, đối với một đặc san ra lần đầu tiên, trong vô vàn khó khăn trắc trở, đạt tới kết quả ấy là rất đáng mừng.
Ở đây, tôi xin nêu một dẫn chứng vui: đ/c giám đốc xí nghiệp in, nơi nhận in đặc san Sông Trà đã phát biểu với chúng tôi: đã khá lâu rồi, trên bàn mongtage của chúng tôi mới có một tạp chí trang nhã với nội dung thú vị như thế. Và chính đ/c ấy đã trực tiếp tham gia thúc đẩy các khâu in ấn để đặc san hoàn thành đúng ngày 19/5. Đó chẳng phải là một cử chỉ đáng quí sao? Nếu không có những tấm lòng, những cử chỉ ủng hộ nhiệt tình vô tư của nhiều anh em bầu bạn, thì chúng tôi cũng khó lòng in xong đặc san trong một thời hạn ngắn ngủi như vậy. Lòng mừng khấp khởi, chúng tôi ôm đặc san về Quảng Ngãi để phát hành, thì than ôi… mọi chuyện đã xảy ra mà chúng tôi không hề hay biết.
Thưa quí anh, quí chị,
Ở đây, chắc cũng không có ai dám vỗ ngực tự hào đã phục vụ cho nhân dân, cho cách mạng nhiều hơn ai. Chúng tôi, những văn nghệ sĩ của cách mạng, lại càng không dám vỗ ngực kiểu đó. Chúng tôi làm việc trong thầm lặng, thiếu thốn, và chúng tôi tự hào về điều ấy. Trong thời gian gần đây, bản thân tôi cũng như một số đồng nghiệp của tôi phải chịu nhiều sự qui chụp bất công của một số người. Không hiểu những đồng nghiệp của tôi phản ứng thế nào, còn phần tôi, tôi bình tâm. Khi chọn công việc của một nhà thơ, lại là nhà thơ của cách mạng, trưởng thành lên từ cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc, tôi không bao giờ nghĩ rằng đây là công việc dễ dàng, không phải là chuyện ngày một ngày hai, càng không phải trò chụp giựt. Con đường văn học chẳng bao giờ bằng phẳng với bất cứ ai. Chỉ một điều tôi tâm niệm: đừng bao giờ rời bỏ sự trung thực, đừng tự hạ thấp nhân cách vốn có của mình. Đối với tôi, nhà thơ không phải là một chức danh mà là một sứ mệnh. Chắc có quí anh sẽ hỏi tôi: thế còn chức vụ Tổng thư ký Hội Văn nghệ Quảng Ngãi của anh thì thế nào? Tôi xin được trả lời: đối với tôi, đó là một trách nhiệm. Trách nhiệm ấy, nếu Thường vụ Tỉnh ủy đã trao cho tôi, tức là Thường vụ có đặt sự tin tưởng nhất định ở tôi, còn nếu đó là chức vụ tôi nhận được từ một cuộc bầu cử dân chủ của hội viên, thì đó là đa số hội viên có tin tưởng nhất định ở tôi. Tôi vẫn sẽ làm một việc như một nhà thơ và sẽ tiếp tục đóng góp cho xã hội từ chỗ đứng một nhà thơ. Còn về đặc san Sông Trà (hay sau này có thể được là Tạp chí Sông Trà) thì tôi nghĩ: nếu mọi người chúng ta cùng làm việc vì sự nghiệp văn nghệ của tỉnh nhà, cùng có thiện chí, thì sự việc đã không đến nỗi như nó đã xảy ra, và cho đến bây giờ, mọi việc cũng chưa phải đã bế tắc. Xin cảm ơn sự chú ý của các anh, các chị.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.