• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
 
QUANG DŨNG- NGƯỜI LÀM MÂY LANG THANG ĐẦU Ô

QUANG DŨNG- NGƯỜI LÀM MÂY LANG THANG ĐẦU Ô



Đồng vẫn là đồng , Vàng vẫn là vàng

                                                                                                                              Trần Hoài Dương

Mây ở đầu ô mây lang thang

Ôi! Chật làm sao

Những phố phường…

QD

Gần như trọn vẹn mươi năm của Thập kỷ 70 Thế kỷ trước, tôi được vinh hạnh gần gũi nhà thơ Quang Dũng. Anh là biên tập viên của Nhà xuất bản Văn học, còn tôi bên báo Văn nghệ, cách nhau vài trăm bước chân. Tuy không cùng cơ quan nhưng hầu như ngày nào cũng gặp nhau vì hai anh em cùng ăn cơm ở nhà ăn tập thể của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, số nhà 49 đường Trần Hưng Đạo, ngay trong Nhà xuất bản Văn học. Cứ đến bữa cơm trưa, nhà ăn tấp nập văn nghệ sĩ, phần lớn là những người độc thân, gia đình ở xa, người nhà đi sơ tán khỏi Hà Nội. Thực khách thường xuyên nhất thường là các nhà văn nhà thơ: Võ Huy Tâm, Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Phan Hách, Quang Dũng, Xuân Quỳnh, nhạc sĩ Phan Thanh Nam và tôi. Mỗi lần anh Mạc Phi ở Tây Bắc về, anh Sao Mai ở Vĩnh Phúc xuống, anh Trần Hữu Thung, anh Minh Huệ ở Nghệ Tĩnh ra cũng đều đến ăn cơm ở đây. Thỉnh thoảng các anh Nguyễn Thế Phương, Như Phong, Hà Minh Tuân, Vĩnh Mai, Nguyễn Văn Sỹ gia đình đi sơ tán, cũng nghé ăn tạm ít bữa. Rồi anh Phạm Văn Khoa bên điện ảnh, anh Mai Văn Hiến bên hội họa, anh Văn Ký, La Thăng, Phan Chí Thanh bên âm nhạc…

Ăn cơm xong, anh và tôi thường đi bộ dạo chơi, hết phố này sang phố khác, lan man hết chuyện này sang chuyện khác. nhiều khi tôi đưa anh về đến cửa nhà anh cuối phố Bà Triệu, hai anh em cứ bịn rịn chưa muốn chia tay, anh lại bảo: “Để tôi tiễn thêm HD một đoạn”, thế là lại cùng quay trở lại, theo đúng lộ trình ban nãy. Dùng dằng như thế, có hôm hai ba lần mới chịu chia tay hẳn. Những cuộc đi dạo sau bữa cơm ở nhà ăn tập thể như thế đã thành một thông lệ. Có khi chỉ có hai anh em tôi, có khi kéo nhau đi cả một đám vui vẻ – Rất nhớ, có một lần đi dạo như thế, phía trước là Xuân Quỳnh, anh Quang Dũng, anh Ngô Ngọc Bội  - hàng phía sau là anh Võ Huy Tâm, bố con Nguyễn Phan Hách và tôi. Cởu con trai Nguyễn Phan Hách mới ở quê Bắc Ninh ra chơi với bố, năm đó chừng 6,7 tuổi. Đang đi đến đoạn dốc phố Bà Triệu, chợt con trai Nguyễn Phan Hách giật giật tay bố, thắc mắc: “Bố ơi, sao cái ông Liên xô kia ông ấy nghèo thế hở bố?”. Mấy anh em phá lên cười. Anh Quang Dũng cao lớn, có hàng ria mép xén tỉa rất kỹ lưỡng, làm cậu bé tưởng là “ông Liên Xô”. Còn chiếc quần ka ki màu xi măng bạc phếch, “pích kê” chằng chịt cả hai đầu gối và hai bên mông làm cho cậu bé nghĩ là “ông Liên Xô” ấy sao mà nghèo đến thế!

Anh Quang Dũng thường ít nói. Giữa cuộc gặp mặt bạn bè, anh chỉ ngồi lặng yên, thảng hoặc mới góp thêm một hai lời nhận xét hóm hỉnh với giọng nhỏ nhẹ và nụ cười mỉm rất duyên dáng. Đôi khi vui chuyện, anh cũng kể một vài sự việc trong làng văn, nhưng rất hiếm hoi. Ngay cả chuyện về bản thân anh, anh nói cũng rất dè dặt. Tôi cảm thấy trong anh luôn có một bầu tâm sự không dễ nói ra.

Có lần, tôi nài nỉ anh chép tặng tôi bài “Tây Tiến”, anh lảng sang nói chuyện khác. Tôi vẫn cố nài nỉ, anh chép miệng: “Thơ ba lăng nhăng, lãng mạn tiêu cực, tạch – tạch – sè ấy mà, HD nhớ làm gì!” Tôi vẫn không chịu buông, vật nài tiếp. Anh bảo thơ làm lâu quá rồi, anh quên nhiều câu, không nhớ hết toàn bài. Tôi nói tôi thuộc, sẽ đọc để anh chép, chủ yếu là tôi muốn có bút tích của anh làm kỷ niệm. Anh cười trừ, dứt khoát từ chối. Mãi cho đến cả năm sau, nhân một hôm tôi mời anh đến lại bán bà cụ phúc hậu ở đường Nguyễn Du, đoạn gần phố Huế uống trà, anh mới giúp tôi được toại nguyện. Đang uống bát chè tươi vàng óng như mật ong, chit nhớ hôm ấy đúng là ngày sinh của mình, tôi nói nhỏ với anh điều ấy.

Anh khẽ reo lên: “Thế à? Vậy mà HD không cho mình biết sớm, mình chuẩn bị chút quà mừng HD. Vậy hôm nay phải để cho mình đãi HD nhé!” Vừa uống chè tươi, ăn kẹo bột, anh vừa thủ thỉ hỏi tôi về quê quán, về già đình. Tôi phải ding từ “thủ thỉ” mới nói lên được đúng phần nào tính cách của anh. Anh cao lớn lực lưỡng nhưng ăn nói lại rất nhỏ nhẹ, lịch sự. Hầu như tôi chưa thấy anh nói to bao giờ - Thường chỉ they anh rủ rỉ trò chuyện, đôi khi chêm một hai câu khôi hài tế nhị, cười cũng không lớn tiếng. Hỏi chuyện tôi mấy câu, anh xin phép bà cụ chủ quán cho ngồi nhờ ở chiếc bàn cao góc nhà một lát. Anh nói nhỏ với tôi: “Xin lỗi HD nhé. Mình có chút việc riêng…”

Anh lấy giấy bút ra viết gì đó. Một lát sau, quay lại bàn nước, anh có vẻ hơi ngượng ngập, đưa cho tôi tờ giấy, nói nhỏ nhẹ: “Mình mừng sinh nhật của HD…” Tôi rất cảm động. Không ngờ anh đã chép tặng tôi bài “Tây Tiến” mà đã mấy lần anh từ chối. Ở góc trên cùng, anh viết mấy dòng hóm hỉnh: “Thơ lãng mạn tiêu cực. Tài liệu tham khảo. Tuyệt đối không phổ biến rộng”. Dưới tên bài “Tây Tiến”, anh đề: “Thân và yêu tặng Trần Hoài Dương”. Anh tách mấy từ trên thành mấy dòng riêng biệt theo kiểu bậc thang:

“Thân

và

yêu

tặng Trần Hoài Dương”

Tôi cảm động nắm chặt bàn tay rất ấm của anh, lặng đi giây lát, rồi nói đùa với anh: “Đến hôm nay em mới nhận ra hết ý nghĩa của việc tách dòng, kiểu thơ bậc thang của Maia đấy anh ạ”.

Nhân chuyện ký tặng tác phẩm, tôi lại nhớ có lần hai anh em lang thang trên đường, tiện thể ghé vào hiệu sách cũ của ông Thuật hói, một người Hà Nội điển hỉnh, rất mê sách. Tôi đang mải mê tìm chọn sách thì anh Quang Dũng ghé tai tôi, nói ngập ngừng: “HD có tiền, cho mình lấy tạp mấy đồng, được không?” Tôi vội vàng đưa anh. Thì ra anh cần mua quyển “Nhà đồi” của chính anh, xuất bản từ mấy năm trước. Cuốn sách đã qua nhiều người đọc, hơi cũ, giấy ố vàng nhưng mau lại được, anh có vẻ mừng lắm. Lại đến quán bà lão quý phái xưa. Trong lúc chờ bà lão rót chè tươi ra bát, anh Quang Dũng rút cuốn “Nhà đồi” ra xem lại. Tôi ngồi sát bên anh, cùng ghé xem.

Quyển sách do chính anh vẽ bìa, màu hang nhạt pha màu nâu đất – Phía dưới, gợn lên hai đường lượn sóng gợi nhớ vùng đồi trung du. Góc trái đột khởi lên một cây cọ cao vút, đơn độc xoè ra vòm lá hình rẻ quạt màu lục đậm.

Tôi giở mục lục, đếm số truyện và ký in trong đó rồi hỏi anh: “Trong số 9 truyện và ký này, anh thích những truyện và ký nào nhất?”. Anh không trả lời ngay câu hỏi mà nói sang chuyện khác, có ý thanh minh: “Cuốn này ra lâu rồi, từ cuối năm 1970. Hồi đó, có mấy quyển bản quyền tác giả, chưa ra khỏi nhà xuất bản đã bị bạn bè lấy hết nên không tặng HD được. Mãi hơn 4 năm sau mới tặng, HD đừng buồn nhé!” Rồi anh vuốt vuốt lại mấy trang sách, thận trọng viết lời đề tặng: “Đặc biệt có ba truyện: Quê Trung du, Nhà đối và Một con tàu lá để riêng tặng Hoài Dương” chữ ký anh vừa ngang tàng vừa phóng khoáng, vừa rắn rỏi vừa bay bướm. Bên dưới đề ngày 22-12-1974, lại kèm theo cả tên anh viết dạng chữ Nho nữa. Ngay chỉ một việc nhỏ, lời anh đề tặng sách thôi cũng mang sắc thái riêng không lẫn với ai.

Hiếm có một nhà văn nào yêu thiên nhiên và hiểu thiên nhiên một cách sâu sắc, tường tận như anh. Biết tôi cũng yêu thiên nhiên, anh thường kể nhiều chuyện về chim chóc, muông thú, về các loài cây cho tôi nghe. Tôi giục anh viết những hiểu biết phong phú ấy cho trẻ em đọc, tôi sẵn sàng lo in sớm cho anh. Chính vì thế, bài bút ký “Mùa quả cọ” tuyệt vời đã ra đời. Bài viết đầy chất thơ, đem lại cho người đọc biết bao kiến thức quý giá về thiên nhiên và về tình yêu đắm đuối đối với thiên nhiên. Không chỉ trên trang viết, trong đời thường, lòng yêu thiên nhiên cũng luôn thường trực trong anh. Thỉnh thoảng trên đường đi, bất chợt thấy một chiếc lá bàng hay một chiếc lá dã hương đỏ thắm rơi phía trước, anh cũng cẩn thận nhặt lên, ngắm nghía, mủm mỉm cười thú vị rồi khẽ khàng đặt vào giữa trang sách.

Trong túi xách của anh, lúc nào cũng có một cuốn sổ ghi chép, một hai quyển sách đang đọc dở. Mỗi khi nhặt được một chiếc lá đẹp, anh trịnh trọng ép vào giữa trang sách rồi vừa nhìn tôi vừa gật đầu một cái, vẻ đắc ý, coi như vừa có thêm một kỷ niệm quý giá do thiên nhiên ban tặng. Có hôm vừa đi đến đường Bà Triệu, đoạn có bức tường dài của Đại sứ quán Pháp, anh chợt đứng lại chăm chú lắng nghe. Trong khu vườn bên kia bức tường đang vẳng ra tiếng chim cu gáy. Anh ra hiệu bảo tôi yên lặng, cùng lắng nghe. Anh bảo có ba loại chim cu khác hẳn nhau, thuộc ba đẳng cấp riêng biệt. Con thuộc loại nào thì từ bé đến lớn chỉ gáy được một giọng như thế. Cu chiếc thì từ trẻ đến già chỉ biết gáy “cúc cu cu… cu” chứ không có chuyện cu chiếc cứ gáy mãi, gáy mãi sẽ được nâng bậc lên, biến thành cu đôi, cu ba.

Cũng như đồng thì mãi mãi vẫn là đồng, bạc là bạc, vàng là vàng chứ không phải đồng, bạc lâu năm lên nước biến thành vàng được. Rồi anh hóm hỉnh, nháy mắt bảo tôi: “Chứ không như con người bọn mình, nhiều nhà thơ có phẩm chất đồng, chẳng hiểu sao cứ lẽo đẽo mãi rồi cũng thành loại vàng đẳng cấp cao” Nhưng rồi vẫn giọng hóm hỉnh ấy, mấy phút sau, anh lại thủ thỉ: “Nhưng nói vậy thôi, HD ạ. Cuối cùng đồng vẫn là đồng – Vàng vẫn là vàng”.

Chúng tôi thường đùa vui, đó nhau trong lúc đi dạo trên đường. Chẳng hạn ở Hà Nội, đường nào nhiều cây cơm nguội nhất, đường nào nhiều cây bàng, cây sấu nhất; cây bồ đề, cây dã hương, cây đa nhiều nhất ở đường nào… Anh cười rất tươi, rất mãn nguyện khi hai anh em cùng đưa ra những câu trả lời trùng khớp với nhau. Khi thấy tôi nói chắc chắn đường Lý Thường Kiệt nhiều cây cơm nguội cổ thụ nhất, đường Điện Biên Phủ nhiều cây đa nhất, trên đường Trần Nhân Tôn có 13 cây bồ đề trồng liền kề nhau, anh thích lắm.

Tôi cũng hay “bày trò” lôi anh đi nơi nọ nơi kia trong thành phố. Anh cũng tỏ ra thích thú với những cuộc vui nho nhỏ ấy. Đang ngồi uống trà “năm xu” ở một quán nhỏ, nghe tôi “tán” về cây bồ đề trước cổng chùa Quán Sứ đang ra lá non, những chiếc lá non có màu môi trẻ con đẹp lắm, thế là anh uống vội cho xong chén nước, giục tôi đến đó luôn. Có hai lần tôi được đi xa với anh. Một lần về vùng mỏ, theo lời rủ rê của anh Võ Huy Tâm và một lần đi Cao Bằng, Lạng Sơn cùng anh Nguyễn Thành Long và anh Đào Xuân Quý, do bên Bộ lâm nghiệp mời.

Chuyến đi Cao Bằng, Lạng Sơn giữa năm 1973 thật thú vị. Chúng tôi liên hệ được với bên Bộ lâm nghiệp, nhờ họ tạo điều kiện cho đi thực tế rồi chúng tôi sẽ viết bài “trả nợ” – Gần một tháng trời, anh em tôi được đi khá nhiều nơi, đến tận chân dãy núi phía Bióoc hùng vĩ, qua mỏ thiếc Tĩnh Túc, về Phai Khắt, Nà Ngần… Hôm ở Nà Ngần, chúng tôi được huyện uỷ coi là khách quý, được ăn ở trong nhà khách của huyện, lại được cấp giấy giới thiệu ưu tiên ra cửa hàng mua bán huyện mua một số nhu yếu phẩm quý hiếm. Mỗi anh em tôi được mua: hai bao thuốc lá Tam Đảo, một gói trà Hồng Đào, một gói mì chính to bằng bao diêm, một gói hạt tiêu gói giấy báo chừng 2 ngón tay, rồi nấm hương, mộc nhĩ mỗi thứ một bọc nhỏ lớn hơn trái cam một chút. Tôi mắt sáng lên khi trông thấy trên lệ hàng có hai chiếc ruột phích Trung Quốc, loại thấp lùn, hình như có thể chứa được chừng hai lít nước. Ai cũng ao ước mua được chiếc ruột phích ấy, vì ở Hà Nội không thể có. Nhưng cứ nghĩ đến việc phải ôm nó suốt cả ngàn cây số phía trước nhiều đèo dốc ai cũng ngại.

Ngay trong buổi sáng hôm sau, tôi đã thấm đòn vì sự bốc đồng, hăng hái mua cái ruột phích trần như nhộng của mình! Không có bao bì, không có hộp các tông đệm rơm vụn như thông lệ, tôi phải bọc cái ruột phích với cái vòi thuỷ tinh quý hoá kia trong mấy lớp giấy báo vò nhàu, lại cẩn thận bọc thêm một chiếc áo, một chiếc quần cùng chiếc áo mưa bao kín bên ngoài nữa. Cứ phải ôm khư trước ngực trong suốt cả hàng trăm cây số đường trường. Đèo dốc, các khúc cua uốn lượn, rồi đường ổ gà ổ trâu, xe cứ liên tục lạng qua lắc lại, nhảy chồm như một gã rồ. Lắm lúc muốn phát điên lên vì cái ruột phích. Đến khi bực bội quá không chịu nổi, tôi buột nói to: “Chắc phải cho ai đó gặp ngang đường vậy! Bực mình quá rồi!”

Chợt anh Quang Dũng bảo tôi: “Hoài Dương đưa cho mình!” rồi anh ôm lấy cái bọc “của nợ”. Tôi thở phào nhẹ nhõm, coi như đã trút được gánh nặng, hất được tảng đá nặng khỏi ngực mình. Tôi hỉ hả nói với anh: “Được anh lấy giúp cho thì còn gì bằng! Nhưng vất vả, anh ráng chịu nhé!”.

Khi xe đưa chúng tôi về đến cổng Toà soạn báo Văn nghệ. Anh trao lại cái bọc “của nợ” to đùng cho tôi. Tôi kêu lên: “Anh giữ mà ding! Em đã “biếu” anh rồi mà! Anh ấn cái bọc vào tay tôi, giọng dứt khoát như ra lệnh: “Mang về mà ding! Mình mang giùm cho HD đỡ vất vả thôi. Ai lại lấy của HD!” Tôi dứt khoát không nhận, cứ dúi vào hai tay anh, đun đẩy đôi co mãi. Anh Nguyễn Thành Long phải nhoài nửa người ra khỏi xe, bảo tôi: “HD mang về đi! Cứ coi như anh Quang Dũng cho lại HD. Giữ lại mà ding. Cần lắm đấy HD ạ. Cậu chưa có gia đình nên chưa biết đấy thôi…” Chắc hiểu tâm trạng tôi lúc ấy, anh Quang Dũng cười rất tươi, vẫy vẫy tay chào và hóm hỉnh nói: “Hôm nào “khai trương” chiếc phích, nhớ ới một tiếng, bọn mình sẽ mang trà ngon đến góp vui!”

Năm 1981, tháng 11, tôi rời Hà Nội vào sống ở Sài Gòn. Từ đó, hai anh em tôi không có dịp được gặp nhau nữa. Năm 1986, tôi có việc ra Hà Nội ít ngày. Một buổi chiều, tôi ngồi uống café với nhà phê bình văn học Trần Bảo Hưng ở đầu dốc phố Bà Triệu. Đúng vào giờ tan tầm làm việc nên xe cộ cuồn cuộn như nước chảy siết, hết đợt này đến đợt khác, xe lao đi vùn vụt không ngừng nghỉ. Chợt tôi trông they, phía dưới chân dốc, một ông già đang tìm cách qua đường. Khó khăn lắm, ông mới nhích cách lề đường chừng 2 mét rồi không nhích thêm được nữa vì những chiếc Honda cứ loang loáng lao qua. Ông già cứ đứng chôn chân tại chỗ, một tay chống gậy, một tay giơ lên quá đầu ra hiệu xin đường, xin dòng xe đừng lao sầm vào người mình.

Đầu tóc ông bạc phơ, tuy ở xa nhưng tôi vẫn cảm nhận được vẻ run rẩy lo sợ nơi ông. Ông cứ đứng như thế một lúc lâu, không nhích thêm được bước nào. Nhìn dòng xe hối hả lao vùn vụt mỗi lúc một rối mắt, tôi thấy thật nguy hiểm, định chạy lại tìm cách giúp ông già qua đường, thì vừa dịp có hai người cũng đang tìm cách qua đường. Họ đến cạnh ông già, cùng ông nhích dần từng chút từng chút. Ông già vẫn run rẩy, tay chống gậy, tay giờ cao ra hiệu xin đường… Lâu lắm, ba người vẫn đứng ở giữa đường, không qua nổi. Mà dòng xe càng lúc càng đông, tiếng gầm rú ầm ào càng lúc càng chói gắt. Tôi vẫn không rời mắt khỏi đám ba người đang mắc kẹt giữa đường. Và rồi tôi chợt nhận ra ông già ấy là nhà thơ Quang Dũng! Sở dĩ mãi tôi mới nhận ra anh vì trông anh khác xưa nhiều quá. Không còn bóng dáng cao lớn, vừa ngang tàng vừa hào hoa như trước nữa. Thời gian khắc nghiệt đã biến anh thành một ông già tóc bạc phơ, người như teo tóp nhỏ lại, bước đi chậm chạp run rẩy và hiện đang giơ mãi cánh tay ra xin đường mà những dòng xe, dòng người cứ như vô tình, vô cảm phớt lờ không hề để ý gì đến ông già tội nghiệp…

Tôi tự nhủ thế nào cũng phải đến thăm anh ngay trong một hai ngày sắp tới. Nhưng rồi, công việc cứ cuốn tôi đi, cuối cùng tôi cũng không đến thăm anh được. Tôi về lại Sài Gòn và đến giữa tháng 10-1988 thì được tin anh mất. Tôi đã không kìm nén nổi, oà khóc vì nhớ anh, thương anh và vì ân hận. Tôi đã vô tình quá. Tôi đã hứa sẽ đến thăm anh nhưng rồi không đến. Nói là bị công việc cuốn đi, nhưng nào có công việc gì quan trọng đâu, toàn những chuyện công danh hão huyền, phù du cả, vậy mà đôi đã bị cuốn vào những thứ vớ vẩn, “ba lăng nhăng” ấy (như cách anh thường hay nói) để quên mất anh, không đến thăm anh, để hai anh em được gần nhau thêm ít phút quý giá… Tôi vẫn luôn bị ám ảnh vì hình ảnh cuối cùng về anh: Một ông già tóc bạc phơ, cứ run rẩy đứng chôn chân giữa đường, tay chống gậy, tay giơ cao quá đầu để xin đường, mãi mà không qua được…

Sài Gòn, tháng 4-2008

Nguồn: Văn nghệ

 

 



Tin tức mới
♦ NHÀ THƠ NGA EVGUENI EVTUSHENKO - 'TRONG ĐỜI TÔI CHỈ UỐNG RƯỢU LÀ NHIỀU' (19/08/2025)
♦ THƠ NGUYỄN DOÃN VIỆT - NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐI VỚT TRĂNG ĐÊM (19/08/2025)
♦ ẤN TRỜI NIÊM GIỮ MIỀN THƯƠNG -Tản văn VÂN ĐAM (19/08/2025)
♦ 188 NGÀY ĐẦU ĐỘC LẬP VÀ QUYẾT SÁCH CỦA BỘ TRƯỞNG NỘI VỤ VÕ NGUYÊN GIÁP (19/08/2025)
♦ CHÙM THƠ VÕ VĂN HÂN - MẪU HỆ TRUYỀN THỪA ÂM ĐIỆU BU NOONG ()
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1729501
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 51630
Truc tuyen Trực tuyến: 8

...

...

Designed by VietNetNam