TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
NHÀ VĂN NGUYỄN CHÍ TRUNG-CÒN THỞ, CÒN ĐI, CÒN VIẾT
NHÀ VĂN NGUYỄN CHÍ TRUNG-CÒN THỞ, CÒN ĐI, CÒN VIẾT
Thanh Thảo
Từ Quảng Ngãi ra Đà Nẵng thăm nhà văn Nguyễn Chí Trung đang nằm Quân y viện C17, tôi định động viên ông thiếu tướng nhà văn đã ngót 80 xuân vừa bị ngã gãy chân bằng khẩu hiệu: “Viết tới chết!” (Write to die). Không ngờ ông Trung nằm trên giường bệnh, vừa nghe câu khẩu hiệu dữ vía đã co giật cái chân lành: “Người miền Nam mình nói “viết” là “giết” đấy ông ạ! Tha cho tôi đi!” Mất cái đầu đề gây ấn tượng, tôi đành tạm bằng lòng với cái đầu đề hơi sáo mòn trên, chỉ e ông nhà văn rất ghét sự sáo mòn này không hài lòng.
Tham gia từ Cách mạng tháng Tám 1945, sau đó nhập ngũ, thực ra, gọi nhà văn Nguyễn Chí Trung là “người lính Nguyễn Chí Trung” thì đúng hơn và có lẽ sẽ khiến ông thấy dễ chịu hơn. Ngang dọc suốt các chiến trường khu Năm từ chống Pháp tới chống Mỹ, mang trên người khá nhiều vết thương, kể cả một thương tích sau lưng mà ông Trung không hiểu sao mình lại bị, vì cả đời ông, theo những đồng đội của ông chứng thực, chưa bao giờ ông “quay lưng về phía kẻ thù”. Trong tất cả các trận đánh, ông thích mặt đối mặt, sòng phẳng.
Còn nhớ, khi tôi về xóm Mù U thuộc huyện Mộ Đức quê tôi để dự lễ khánh thành một tấm bia kỷ niệm những người từng chiến đấu, hy sinh hay còn sống sau cuộc chiến tranh chống Mỹ do bà con trong xóm dựng lên, tình cờ thấy tên “nhà văn Nguyễn Chí Trung” được khắc trên bia. Hỏi chuyện mới biết, đây là địa bàn hoạt động của ông Trung trong khoảng thời gian ác liệt năm 1972 trước hiệp định Paris.
Quen ông Nguyễn Chí Trung ở Sài Gòn tháng 5-1975, rồi đánh đu với đoàn công tác của ông đi từ Sài Gòn ra Đà Nẵng qua tất cả các tỉnh miền Trung vừa giải phóng, sau đó lại có mấy năm là lính của ông ở trại sáng tác Quân khu Năm - Đà Nẵng, nhưng cho tới bây giờ, với tôi, ông Nguyễn Chí Trung vẫn là một sự ngạc nhiên không dứt. Thậm chí, tôi thấy ông khó hiểu hơn lúc đầu tôi tưởng rất nhiều. Là nhà văn, nhưng ông Nguyễn Chí Trung viết không nhiều. Ngược lại, ông đi, ông lăn lộn, ông chiến đấu, ông sống với nhân dân thì gấp cả nghìn lần những gì ông đưa vào tác phẩm.
Có thể nói, chính người lính Nguyễn Chí Trung là nhân vật lớn nhất, kỳ lạ nhất, điển hình nhất của... nhà văn Nguyễn Chí Trung. Nhưng chẳng bao giờ ông tự viết về mình. Có lẽ vì thế mà ông ít tác phẩm. Trong chiến tranh, đã không dưới chục lần ông Trung viết những bản báo cáo thành tích đề nghị phong danh hiệu anh hùng hay chiến sĩ thi đua cho các chiến sĩ dưới quyền mình, trong khi thực ra, người đáng được phong anh hùng không chỉ một lần trong chiến tranh chính là... ông. Nhớ một lần, chú em nhà báo của tôi cùng ông về xã Tịnh Minh (Sơn Tịnh - Quảng Ngãi). Khi vừa nhìn thấy ông, tất cả những người nông dân lớn tuổi trong làng đã đồng loạt bỏ cuốc bỏ cày chạy tới ôm chầm lấy ông Trung.
Người ta gọi ông là “ông Trung lụt” - một biệt danh mà tôi cho là còn cao quý hơn cả huân chương. Gọi như thế vì bà con Tịnh Minh nhớ ơn ông đã cứu cả làng thoát chết nước và chết đói trong trận lụt lịch sử năm 1964. Chẳng bao giờ ông kể cho chúng tôi nghe chuyện này, mà chính bà con Tịnh Minh kể. Ông Nguyễn Chí Trung là “nhà văn của nhân dân” chứ không phải “nhà văn nhân dân”. Chính xác hơn, ông là “con của nhân dân”, một người con chí trung chí hiếu nay đã gần tròn 80 tuổi.
Cách đây ngót chục năm, vào dịp Tết ta, ông Trung về Quảng Ngãi. Dạo đó ông đang làm trợ lý cho ông Lê Khả Phiêu - Tổng Bí thư. Ông đi một mình về Quảng Ngãi và đêm trừ tịch năm đó, ông không ở nhà khách hay khách sạn trong thị xã, mà ở nhà anh thương binh nặng tên Thắng ở Sơn Tịnh. Sau này ông kể lại, suốt đêm 30 Tết ấy ông không ngủ được, không phải vì lạ nhà hay vì nhà anh thương binh Thắng quá tuềnh toàng. Ông không ngủ được vì thỉnh thoảng, giữa đêm trừ tịch sâu hun hút, ông lại nghe dội lên tiếng cặp đòn tay mà anh Thắng dùng để di chuyển (anh Thắng là thương binh ở chiến trường Campuchia, bị cụt hai chân quá đầu gối). Ông Trung thú nhận, cái tiếng dội ấy nhói vào ông ghê quá, khiến ông không tài nào chợp mắt. Mùng 2 Tết năm đó, sau khi ăn cơm ở nhà tôi, ông đề nghị thằng con lớn của tôi học lớp 12, đèo xe đạp đưa ông đến nhà ông phó chủ tịch tỉnh. Mục đích là để xin một cơ chế hỗ trợ cho xóm Mù U.
Sau đó ông đón xe lam vào thẳng nhà ông chủ tịch huyện Mộ Đức để bàn cho “ất giáp” về sự hỗ trợ này. Ông chủ tịch huyện, sau đó có kể lại, do chưa biết ông Trung là ai, nên khá ngạc nhiên khi đón ở nhà mình một bác cựu chiến binh (ông Trung luôn mặc một chiếc áo lính cũ) dáng vẻ lùi xùi. Không lẽ mới mùng 2 Tết mà ông này đi kiện? Dạo đó, tôi có nói đùa với ông Trung, là ông nên chọn tôi làm trợ lý cho ông, ít nhất là vào dịp Tết, để tôi kiếm mấy chai rượu ngoại uống chơi.
Ông Trung tỏ ra không hiểu: Rượu ngoại ở đâu mà “kiếm”? Thì “nó ở đó” chứ ở đâu! Là người khá tinh quái, nhưng nhiều lúc ông Trung lại thật thà. Ngày còn làm lính của ông ở trại sáng tác Quân khu Năm, tôi nổi tiếng là hay “quậy”, tính ba trời ba đất. Phải thủ trưởng khác thì tôi bị đuổi lâu rồi. Vậy mà ông Trung chịu hết. Ông chịu đựng tất cả, miễn sao anh em trong trại viết ấy có tác phẩm. Mà anh có tác phẩm, anh nổi tiếng, thì anh hưởng, chứ ông Trung nào có được gì. Mãi sau này, tôi nghĩ vẫn không ra, vì sao ông Trung chịu đựng gánh gồng thậm chí cả hy sinh để duy trì cái trại viết ấy. Bạn ông đã ra Hà Nội để làm chuyện khác, ngồi ghế khác, ngon lành và nổi tiếng hơn rất nhiều. Riêng ông Trung vẫn lọ mọ. Không phải ông thuộc dạng “đọc câu thơ đồng chí ngỡ thơ mình”, nhưng tôi chưa thấy ai vui buồn vì tác phẩm của người khác, vì thành công hay thất bại trong văn học của người khác như ông Trung.
Cầu chúc nhà văn Nguyễn Chí Trung sớm bật dậy khỏi chiếc giường bệnh viện để... thở và đi, đi và sống, sống và viết. Nhưng hình như, trong lúc đang phải nằm bệnh viện, ông Trung lại... đi rồi. Ông đi Tam Quan (Bình Định)-mang theo xe lăn trên ô tô-để dự cuộc họp mặt sau 55 năm của Đoàn Văn công Bộ Tư lệnh Liên khu Năm mà ông là trưởng đoàn đầu tiên (tên thật ông Nguyễn Chí Trung là Thái Nguyên Chung), nhà thơ Lưu Trùng Dương là phó đoàn.
Về nhà thơ Lưu Trùng Dương, ông Trung nói với tôi: “Ông Dương nếu không bị “thần khẩu hại xác phàm” thì ông ấy còn lên dữ lắm, vì ông ấy có tài hơn mình. Ngay hồi đó ông Dương đã làm nhiều thơ hay phục vụ kháng chiến rồi. Mình chỉ là anh quản lý đoàn thôi”. Thì tôi nghĩ, suốt đời ông Nguyễn Chí Trung là một manager, một người quản lý tuyệt vời của các nhà văn, của các văn nghệ sĩ. Giống như kiểu một giám đốc điều hành ở một câu lạc bộ bóng đá bây giờ vậy.
Hãy sống, sống và cứ thế...
Nguyễn Chí Trung thực sự là người cực đoan, rất cực đoan. Người ta đồn rằng, trong diễn từ của vị nguyên thủ quốc gia ngày đón tổng thống Mỹ Bill Clinton có phần tư vấn của ông Trung. Chẳng biết thực hư thế nào, hỏi ông Trung thì ông không bao giờ nói, đành bán tin bán nghi vậy. Nhưng qua rất nhiều lần trò chuyện, qua nhiều câu ướm hỏi nửa đùa nửa thật của tôi mà tôi hiểu hơn cái cực đoan của ông. Tôi kính trọng con người cực đoan này. Có thể, vì tôi cũng là người rất cực đoan, dù theo một hướng khác, cách khác. Nếu bây giờ ông Trung lại “mềm mỏng” lại “hội nhập thoải mái”, lại đổi giọng một cách ngon lành, thì sẽ chẳng còn là Nguyễn Chí Trung nữa.
Ai cũng có thể bị lịch sử vượt qua và chẳng ai thay đổi được lịch sử. Nhưng ai cũng có thể “là mình”, là chính mình. Cái đó thực ra không dễ. Nhưng phải quyết “là” cho bằng được. Thế mới đã. Dù cũng chẳng để làm gì. Trước khi bị gãy chân mấy ngày, ông Trung ngồi xe Honda từ Đà Nẵng vào Quảng Ngãi, rồi lại “retour” Đà Nẵng ngay trong đêm. Để làm gì? Chẳng làm gì, chỉ để tặng tôi và vài chú em ở Quảng Ngãi quyển tiểu thuyết ông vừa in, nhan đề Tiếng khóc của nàng Út.
Đây là quyển tiểu thuyết “đầu tay” của ông, được ông trăn trở và “âm mưu” từ mấy chục năm nay, giờ mới viết. Mà dường như quyển sách dày 427 trang này mới chỉ là “khúc dạo đầu” (ouverture) cho những gì mà nhà văn muốn tái hiện về một giai đoạn lịch sử có thể là thảm khốc của dân tộc: thời điểm sau 1954 ở miền Trung, cụ thể là ở Quảng Ngãi. Những chuyện ông Trung viết trong quyển sách này bây giờ có vẻ đã quá xa. Nhiều người đã quên. Nhiều người không muốn nhớ tới nữa. Nhưng ông Trung thì nhớ. Nhớ đến mức cực đoan. Dường như ông Nguyễn Chí Trung không chịu “sám hối”. Vả lại, tôi nghĩ ông cũng chả có gì để phải sám hối hay phải viết theo một dòng “văn học sám hối” nào đó. Mỗi người một số phận, mỗi người khi thực sự “là mình” thì cứ thế mà sống, cứ thế mà chơi, nói như Boris Pasternak: “Hãy sống, sống và cứ thế/ Sống và cứ thế, đến cùng”.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.