Dắt lưng chiếc quạt mo cau/ Bờm lên thăm Cuội chăn trâu đồng trời/ Dọc đường Bờm mải mê chơi/ Sờ lưng, không biết quạt rơi bao giờ/ Bờm buồn, tiếc quạt ngẩn ngơ/ Cuội đưa chiếc lá đa to, Bờm cười.
Sáng nay bé dậy sớm/ Trước cả ông mặt trời/ Cặp mới, sách vở mới/ Để dự ngày khai trường// Sân trường rợp màu cờ/ Lộng lẫy chùm bong bóng/Mây trên trời ngó xuống/ Cỏ dưới đất ngước lên
Người con gái ấy cũng không phải ai xa lạ. Nhà chị ở xóm Bến còn nhà tôi ở xóm Chùa, cách nhau là một quãng đồng khiêm tốn có tên gọi thật dễ thương và cụ thể: đồng Bé. Chỉ một tiếng hú gọi của xóm Bến bên sông là xóm Chùa bên chân núi như bừng tĩnh dậy. Tôi có cảm giác cái làng nhỏ gồm hai xóm của quê tôi là một sự hài hoà Âm – Dương đến tuyệt vời. Một bên động một bên tĩnh, một bên im lắng không khí chùa chiền lại một bên tấp nập, rộn ràng bến chợ.
Nói thật, ngày vào chiến trường, tôi cũng không thể biết được bao giờ thì tới ngày thống nhất, bao giờ thì mình trở ra Hà Nội, về nhà cha mẹ mình bằng đường số Một.
Ôm Trường Sơn thừa ra một tay/ ôm chiến trường về cho ai đây/ anh đã thấy mình ngây thơ quá đỗi/ mặt đất này không chấp nhận trời xanh/ Hai đường thẳng song song/ mơ mộng thế anh tin rằng sẽ gặp/ tình yêu lớn không gợn mây ngờ vực/ mặt trăng còn phía trước đợi chờ anh.
Yêu ngược đường đau khổ biết bao nhiêu// Anh không nói với em cuối ngày mặt trời sẽ lặn/ Anh không nói với em khi nao nỗi nhớ sẽ phai nhòa// Anh cũng không nói với em yêu ngược đường đau khổ/ Anh để mặc em hão huyền dấn chân vào lầm lỡ/ Em biết phải về đâu để tìm lại chính mình?
Mùi đất nung quyện trong làn khói chiều bảng lảng là thứ mùi duy nhất tồn tại ở làng Mỹ Thiện, như hơi thở ngàn đời của những linh hồn đất. Nhưng chiều nay, cái mùi quen thuộc ấy bỗng trở nên nặng trĩu, thấm đẫm hơi ẩm từ bầu trời đang vần vũ, cuộn lấy tâm trí Hùng như một lời thì thầm của quá khứ, một điềm báo chẳng lành.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.