Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch.
Là nhân vật kiệt suất trong lịch sử, nhưng cuộc đời ông đa dạng. Bởi thế đánh giá về ông đã có những nhìn nhận không công bằng thiếu khách quan, cần xem xét.
Tại Trung tâm văn hóa Người cao tuổi Việt Nam (phố Đặng Văn Ngữ Hà Nội) vừa diễn ra một sự kiện đáng nhớ: Nhóm nghiên cứu Người tiền sử và Cội nguồn dân tộc của Trung tâm đã cho công bố phần 1 của cuốn sách “Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt cổ” của Nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền (tứcNhà văn Khánh Hoài) – Một công trình gây xôn xao dư luận nghiên cứu và báo giới những năm gần đây.
Cao Biền là quan đô hộ nước ta thời Bắc thuộc, được cử sang trấn nhậm Giao Châu từ năm 866 đến 887. Căn cứ Cựu Đường thư, Cao Biền liệt truyện thì Cao Biền thuộc dòng dõi thế gia, từ bé đã giỏi văn chương, lại có tài võ nghệ. Một hôm có hai con diều sóng đôi bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, một phát tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là "Lạc Điêu Thị Ngự Sử". Năm 865, sau khi đánh thắng quân Nam Chiếu, Cao Biền được cử làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu.
Do thời gian quá dài của thời Bắc Thuộc, nhiều người thường cho rằng Nho Giáo đã được người Tàu truyền bá mạnh mẽ vào nước ta qua chính sách đồng hóa của họ. Điều này không hoàn toàn đúng. Sự truyền bá này chỉ diễn ra một cách giới hạn trong ít thế kỷ đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa Giáo và rất yếu ớt trong những thế kỷ kế tiếp. Các nhà nghiên cứu về lịch sử, tư tưởng và văn học Việt Nam thời cổ gần đây hầu như đều đồng ý về nhận định này.
Ở tuổi 85, bà Nguyễn Thị Bình vẫn giữ được toàn bộ nhiệt huyết của một người gắn bó cả đời với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc. Bà truyền lại cho thế hệ sau những bài học bằng chính cuộc đời, bằng con người luôn trẻ, luôn mới, qua cuốn hồi ký của mình.
Trương Vĩnh Ký được coi là người đặt nền móng cho báo chí quốc ngữ Việt Nam, gắn liền với tờ Gia Định báo. Cho đến nay, các tác phẩm báo chí mà ông để lại vẫn không hề lỗi thời mà tiếp tục phát huy ý nghĩa và sức mạnh.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.