TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” - HÀ HUY HOÀNG
ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” - HÀ HUY HOÀNG
Trích từ Diễn đàn văn nghệ Việt Nam
ẤN PHẨM RA HÀNG THÁNG CỦA THỜI BÁO VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
LIÊN HIỆP CÁC HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VIỆT NAM
Kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch HỒ CHÍ MINH (19/5/1890 19/5/2024)
*
(BỘ MỚI) SỐ 24 - Tháng 5/2024
ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” HÀ HUY HOÀNG
Đây là một bài thơ hay, hay trên tinh thần “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nha thi sĩ đặt chủ thể cá nhân lên hàng đầu, tôn sùng cái Đẹp thuần túy; khước từ mọi luân lý, đạo đức mang tính giáo điều. Tuy thế, bài thơ vẫn rất Đời, rất Người.
Cùng một cô đào hát bộ Tinh huyết (1939) » Đẹp và dâm
Lạ sao! Cả rạp không ai khóc
Chỉ có mình cô khóc với cô!
- Nước mắt ly sầu hay giả dối?
Khúc ca như vọng tiếng trong mồ!
Dáng cô uốn éo đường tơ liễu!
Xiêm áo rung rinh tợ nắng vàng.
Có phải hồn cô buồn lảo đảo
Không hồn đồng điệu nhịp nhàng than?
Không đâu, Tư Đức! Không đâu cô...
Cô dẫn hồn tôi tự nãy giờ...
Lưỡn lượn vơi vơi trên sóng múa,
Rúng như ý nhạc phả đường tơ.
Tôi đi tìm đẹp trên sân khấu
- Đẹp bỏ cô khi bỏ lốt tuồng!
Để yêu cô với hồn thi sĩ;
Để thấy nguồn thơ rào rạt tuôn...
Mặt cô buồn quá! - Tôi yêu quá!
- Nghệ thuật tràn ra giữa bể đêm.
Tôi chợt ôm cô trong giấc mộng
Nút bao thanh khí, đã nư thèm...
1939
BÍCH KHÊ
LỜI BÌNH
Hát bộ (còn được gọi là hát bội, hát tuồng) là nghệ thuật sân khấu cổ, xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XII ở nước ta.
Rồi thì trong dân gian đã lưu truyền câu ca: “Hát bội làm tội người ta/Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con” thì đủ để chúng ta hiểu, để biết hát bộ nó có sức hút, độ “càn quét” thế nào trong sinh hoạt và đời sống tinh thần của những người đương thời khi ấy.
Vàng, Bích Khê - một thi sĩ lừng danh của phong trào Thơ Mới - người con xuất sắc của quê hương núi Ấn sông Trà - cũng là một của hát bộ. Có điều hồi đó thi sĩ của chúng ta chưa có vợ con gì nên không có bất cứ hề tuy nào đáng tiếc xảy ra. Hơn thế, bởi ông là thi sĩ, một con người yêu cái Đẹp, đam mê và “săn lùng" cái Đẹp thì ông phải có sự khác biệt như thế nào, chứ không thể là phiên bản "đại trà” như bao người bình thường khác được. Và cũng nhờ hát bộ mà ông đã có được bài thơ cực hay, cực nổi tiếng. “CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” chính là bài thơ đó:
Lạ sao! Cả rạp không ai khóc
Chỉ có mình cô khóc với cô!
- Nước mắt ly sầu hay giả dối?
Khúc ca như vọng tiếng trong mồ!
Khi người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu, một khi họ đã nhập vai rồi, buồn nỗi buồn của nhân vật, đau nỗi đau của nhân vật thì họ sẽ không còn là họ nữa. Lúc ấy họ với với nhân vật đã tan hòa vào nhau, chỉ là một mà thôi.
Hồi thì hỏi vậy thôi, chứ thật ra nhà thơ đã biết tỏng tòng tong là không hề có sự già dối nào ở đây cả. Ôi lời ca, ôi tiếng hát của họ sao mà hư ảo quá, tâm thức của thì nhân dường như nghe từ một cõi hư vô nào vang vọng đến.
Từ cái hồn tinh túy của nghệ thuật đến xiêm y và vũ đạo của người nghệ sĩ được nhà thơ khắc họa thật tài tình, sinh động và tinh tế:
Dáng cô uốn éo đường tơ liễu!
Xiêm áo rung rinh tợ nắng vàng.
Có phải hồn cô buồn lảo đảo
Không hồn đồng điệu nhịp nhàng than?
Này giờ chỉ là xem và quan sát, giờ thì tiếng lòng của thi nhân mới thực sự cất lên. Nhà thơ đã “trút nỗi lòng” của mình với Tư Đức - một có đạo nói danh, tài sắc vẹn toàn:
Không đâu, Tư Đức! Không đâu cô...
Cô dẫn hồn tôi tự nãy giờ...
Lưỡn lượn vơi vơi trên sóng múa,
Rúng như ý nhạc phả đường tơ.
Tất nhiên, sự thú nhân này, sự rung động thẳm sâu và dữ dội ở cõi hồn của thi nhân, không một ai hay biết cả, kể cả cô đào đẹp xinh Tư Đức. Chỉ mỗi mình thi nhân là hiểu là biết mà thôi.
Chưa dừng lại ở đó, nhà thờ còn “tâm sự” thật lòng với cô đào điều này nữa:.
Tôi đi tìm đẹp trên sân khấu
- Đẹp bỏ cô khi bỏ lốt tuồng!
Để yêu cô với hồn thi sĩ;
Để thấy nguồn thơ rào rạt tuôn…
Vàng, thi sĩ là người đam mê cái Đẹp - người thơ chỉ thật sự bị hớp hồn, bị mê hoặc những lúc cô đứng trên sân khấu. Nguồn thơ trong thì nhân cũng từ đây mà tuôn trào. Thế nhưng, một khi cô đã rời sân khấu, nghĩa là trút bỏ xiêm y của vai diễn đi rồi thì cô cũng chỉ là một người đàn bà bình thường, bình thường như bao nhiêu người đàn bà khác mà thôi.
Và đây, đây mới là "sức nặng” của bài thơ ở khổ thơ cuối cùng này, những dòng thơ đã gây cho chúng ta biết bao nhiêu là rung động với một mỹ cảm tuyệt vời:
Mặt cô buồn quá! - Tôi yêu quá!
- Nghệ thuật tràn ra giữa bể đêm.
Tôi chợt ôm cô trong giấc mộng
Nút bao thanh khí, đã nư thèm...
Bằng một giác quan cực kỳ nhạy cảm và tinh tế - mặc ánh đèn lung linh của sân khấu, mặc vũ điệu cùng xiêm y “tơ nắng vàng” của người nghệ sĩ, mặc tiếng đàn tiếng trống của các nhạc công, thi nhân vẫn phát hiện ra đôi mắt của cô đào Tư Đức sao mà buồn quá, buồn đến nao lòng.
Phải chứng vì đôi mắt của cô đào đẹp mà buồn quá đã làm cho trái tim của thi sĩ rung lên, rung lên dữ dội. Bởi quá rung động nên thi nhân đã yêu, yêu đến mức “Nghệ thuật tràn ra giữa biển đêm”?
Vì yêu, vì quá ám ảnh bởi đôi mắt của cô đào Tư Đức nên nhà thơ đã chìm vào giấc mộng. Và trong giấc mộng ấy, nhà thơ đã ôm ghì cô vào lòng, trong khi cô còn mặc nguyên xiêm y của sân khấu - bằng đôi tay siết chặt. Rồi thì đôi môi, rồi thì chiếc lưỡi bỏng rát của nhà thơ cũng hoạt động không ngừng trong nỗi yêu thương, khát khao và cuồng dại…
“CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” là một bài thơ hay, hay trên tinh thần “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà thi sĩ đặt chủ thể cá nhân lên hàng đầu, tôn sùng cái Đẹp thuần túy, khước từ mọi luân lý, đạo đức mang tính giáo điều. Tuy thế, bài thơ vẫn rất Đời, rất Người. Dĩ nhiên, đây không phải là bài thơ xuất sắc và tiêu biểu nhất của thi sĩ Bích Khê, nhưng với riêng tôi. tôi vô cùng yêu thích và bị ám gợi bởi bài thơ này. Sở đi tôi yêu thích vì tôi đã từng có những đam mê và chìm vào giấc mộng cũng giống như ông, hồi tôi ở cái tuổi mười ba mười bốn. Có điều khác ông ở chỗ, cô đào mà tôi “say nắng” là đào cải lương chứ không phải
đào hát bộ. HHH
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.