TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
MẤY CẢM XÚC VỀ BÍCH KHÊ VÀ THƠ BÍCH KHÊ -Tiểu luận TRẦN HOÀI HÀ
MẤY CẢM XÚC VỀ BÍCH KHÊ VÀ THƠ BÍCH KHÊ -Tiểu luận TRẦN HOÀI HÀ
Xin được nói ngay rằng, tôi chỉ là một bạn đọc, đã từng nghe, từng đọc thơ Bích Khê trước khi có cuộc Hội thảo này. Bằng chứng mới đây nhất là năm 1999, khi được biệt phái đi cùng Đoàn làm phim của Hội Nhà văn Việt Nam thực hiện bộ phim về cuộc đời và sự nghiệp của một nhà thơ lão thành Quảng Ngãi: Cụ Nguyễn Viết Lãm nhân dịp cụ thượng thọ 80 tuổi. Một trong những địa chỉ mà chúng tôi tìm đến trong đề tài ấy là quê hương Thu Xà và mộ của Bích Khê.
Tâc giả Trần Hoài Hà (1940-2023)
Tôi đã đứng như “thiền” trước ngôi mộ đầy vẻ siêu thoát ấy và mạo muội “múa rìu qua mắt thợ” cảm tác mấy dòng thơ. Sau đó tôi đã đọc cho cụ Lãm và nhà thơ Trần Nhương nghe. Cụ Lãm bảo: Nghe thơ cậu, nghĩ đến Bích Khê, mình thấy rờn rợn tận xương sống. Riêng tôi, tôi rất tâm đắc về bài thơ “xuất thẩn” ấy. Bài thơ có tên: Thơ đề nhân viếng mộ Bích Khê:
Như có hồn ai trên ngọn tre
Rả rích khúc buồn trong tiếng ve.
Tình sử trăm năm đầy hơi hám
Thế sự một ngày cũng máu me
Một nắm xương Rồng mù gió cát
Mấy vần tuyệt mệnh lạnh cõi Mê
Màu bỗng chuyển sang màu huyết dụ
Hồn chợt hóa thành hồn Bích Khê.
Điều khiến người ta chú ý nhất và cũng là cái cớ để họ dựa vào đó mà bàn luận, mà suy diễn về Bích Khê và thơ Bích Khê có lẽ bắt nguổn từ hai chữ “tinh” trong hai tập thơ “Tinh huyết” và “Tinh hoa” với gần 50 bài thơ dài ngắn khác nhau. Chữ “Tinh” theo cách hiểu thông thường thì đó là “sự nguyên chất”, là sự thuẩn khiết, là cái tinh túy, hay nói theo lối dân gian là “vàng ròng”. Tôi chưa tìm thấy ở đâu Bích Khê đã tự nhận thơ mình đã là “tinh” mà điểu Bích Khê khiến ta cảm nhận rõ hơn là ông đang trên đường đi tìm với một khát vọng cháy bỏng là muốn vươn tới cái “tinh” ấy. Trong cuộc hành trình tìm kiếm để vươn tới đó, Bích Khê đã huy động cả tiềm thức cá nhân, lục lọi cả trong triết học phương Đông, phương Tây, cả trong Phật giáo và đặc biệt là trong nền văn học Pháp đã ập vào các trường mà ông đang học ở Huế, ở Hà Nội với những chủ nghĩa, những trường phái rất mới, rất lạ với thi đàn đương thời của Việt Nam.
Bạn bè hội ngộ cùng Tiến sĩ Lê Quốc Ân (Cháu Bích Khê) đầu Xuân Giáp Thìn
Tham vọng của Bích Khê là cho những thứ ấy vào luyện trong cái “Lò bát quái” trong sức nóng ngàn độ của tư tưởng “Duy tân” của ông để tìm ra một sản phẩm gì đó mà trong thi đàn Việt Nam không có hoặc chưa có. Sản phẩm ấy Bích Khê định đặt tên là “tinh”. Đó là mong muốn, là khát vọng. Còn việc Bích Khê có tìm ra, có vươn tới được cái “tinh” ấy hay không hoặc chỉ tìm thấy một thứ “Đầu Ngô, mình... Lu-” thì lại là một việc khác. Điều người ta đọc có thể tìm được tiếng nói chung khi đọc thơ Bích Khê là đây đó trong thơ ông đã điểm xuyết một lối biểu đạt mới và hơn thế là “lạ”. Tuy nhiên, cái “mới”, cái “lạ” không đồng nhất với cái “tốt”, cái “đúng”, cái “hay”.
Cuối thế kỷ 19, một số nhà thơ Pháp vốn trước từng say mê với các trường phái Lãng mạn, Thi Sơn thì bây giờ quay ra chê bai, phỉ báng thậm chí nguyển rủa, công kích nó và đề xướng, tô vẽ và tôn thờ một phương pháp mà họ cho là “mới”, là “lạ”. Đó chính là chủ nghĩa tượng trưng. Đó là những Bôđơle (Baudelaire), Véclen (Verlaine), Malácmê (Mallarme), Rimbô (Rimbaud)... Mục tiêu của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ ca là hướng vào khai thác thế giới nội tâm. Bôđơle tự đặt yêu cầu cho thơ ông là phải “nghe” được hương thơm,“ngửi” được màu sắc và “thấy” được âm thanh. Thơ tượng trưng triệt để sử dụng phương pháp “gợi mở”. Họ chủ trương: Không cho độc giả đọc đến đâu hiểu ngay đến đó, mà phải vừa đọc, vừa đoán. Họ quan niệm: Thơ là một cái gì đó vừa huyền diệu, vừa cao cả, vừa tỉnh túy nên thơ phải vượt ra ngoài cái thông thường, cái tầm thường. Malácmê nói: Điểu kiêng kị nhất của thơ là diễn tả đúng thực tại. Thơ không cần sự rõ ràng, sự tách bạch. Thơ là mờ ảo, là tinh khiết,là lan tỏa. Điếu thuốc là thực tại - khói thuốc là thơ. Thơ tượng trưng còn coi yếu tố nhạc, yếu tố họa là phương tiện chuyển tải hiệu quả nhất cho các ý tưởng siêu hình.
Trong thơ văn Việt Nam, thật ra phương pháp tượng trưng không phải mới. Nó đã từng xuất hiện từ khá sớm trong ca dao, trong nhiểu tác phẩm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan,ví như:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn Hồng đã có ai vào hay chưa (Ca dao)
Hoặc:
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh (Kiều)
Tuy nhiên, sau hơn 80 năm đô hộ, cùng với đội quân xâm lược, các trường phái thơ Pháp cũng tràn vào Việt Nam, ít nhiều gây những tác động đến một số trí thức trẻ, trong đó có Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Đinh Hùng... Tuy nhiên, lâu nay, vì nhiều lý do khác nhau, và trong những bối cảnh khác nhau, giới phê bình văn học hoặc đã quá dễ dãi, hoặc là quá khắt khe với một số tác giả, một số tác phẩm. Cả hai thái cực đó đều dẫn đến những nhìn nhận sai lệch về giá trị thực ở một số tác giả, tác phẩm. Chúng ta rất trân trọng khát vọng tìm kiếm và khám phá của Bích Khê và quả thật trong cuộc tìm kiếm và khám phá ấy, Bích Khê đã có được một số thành quả. Hãy chiêm ngưỡng màu sắc, hãy lắng tai nghe nhạc điệu, hãy tĩnh tâm mà rung động cùng Bích Khê trước một mùa thu tuyệt vời:
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông.
Quả là Bích Khê cố để “nghe” được tiếng của sự câm lặng, “thấy” được, “vẽ” được đường nét của cái vô hình, “cảm” được cái động trong cái tĩnh:
Nâng lên núm vú dôi
Sữa trǎng nhi nhỉ giọt (Xuân tượng trưng).
“Mới” và “lạ” cả trong hình ảnh, âm thanh, cả trong lối cắt câu, ngắt nhịp:
Thoảng tiếng gáy của cu
Cườm. Hiu hiu vàng đượm...
Tuy nhiên, cái “mới” và cái “lạ” cũng chỉ mới là những nét điểm xuyết trong toàn bộ bức tranh thơ của Bích Khê. Ngoài nó, ta vẫn thấy ở đây đầy ắp những bài thơ, những câu thơ in đậm dấu vết của phương pháp lãng mạn và phương pháp tả thực, những thứ mà chủ nghĩa tượng trưng không tiếc lời chê bai:
Ngoài li Lý Bạch trời như mộng
Sau khói phù dung mộng cố huong
(Mộng trong Hương)
Người em rày mệt quá
Mà rày gặp cố tri
Hai tay đây rả rả?
Dìu lấy cùng nhau đi!
(Hàn Mạc Tử)
Thế nên, một số người đã vội đưa Bích Khê vào danh sách những nhà thơ tượng trưng hàng đầu như một Bôđơle, một Véclen... của Việt Nam là chưa thỏa đáng. Trên thực tế, trường phái thơ tượng trưng của Pháp bằng số lượng tác phẩm đổ sộ, bằng hệ thống lý luận chặt chẽ đã tạo nên những chấn động lớn trên thi đàn nước Pháp, góp phẩn làm sản sinh chủ nghĩa siêu thực sau này. Xét như vậy, yếu tố tượng trưng trong thi đàn Việt Nam, trong thơ Bích Khê tác dụng vẫn còn khiêm tốn lắm, thậm chí có những ý tưởng còn xa lạ với bạn đọc Việt Nam. Có thể coi Bích Khê là một trong những nhà thơ Việt Nam đầu tiên đã bước đầu phát hiện và đưa yếu tố tượng trưng với tư cách là một phương pháp sáng tác vào thi đàn Việt Nam. Cái được và cái chưa được của Bích Khê đều nằm trên chặng đường ngắn ngủi của cuộc hành trình đầy nhiệt huyết và nhiều trắc trở ấy.
Có điều lạ là cũng như các nhà thơ tượng trưng bậc thầy, Bích Khê luôn kết tội những “Dặm mòn”, luôn cổ xúy cho “Duy tân” nhưng gần như ta không tìm thấy nơi đâu trong thơ Bích Khê những “cảm” về một “cơn trở dạ” hệ trọng của cả một đất nước, một dân tộc trong suốt một thời kỳ sôi sục cách mạng 1930 - 1945, mà Quảng Ngãi là một trong những nơi nóng nhất. Nếu hiện thực ấy là điếu thuốc thì khói thuốc trong thơ Bích Khê là đâu? Suy cho cùng, cách mạng cũng là sự đổi mới, là sự duy tân, rất hợp gu để thơ tượng trưng thể hiện cơ mà! Thơ Bích Khê chỉ mới nằm gọn trong quỹ đạo của một con tim cụ thể trước tình yêu và những vẻ đẹp gần như bất biến của trời đất. Chính vì vậy, so với những nhà thơ cùng thời, thơ Bích Khê khó đến với đông đảo công chúng, mà nhiều hơn là trở thành một món thưởng thức cao cấp của một số trí thức cùng tâm trạng hoặc cùng cảnh ngộ. Thời ấy, ở nước ta, người biết làm thơ, nhất là người biết làm thơ mới theo chủ nghĩa này, chú nghĩa nọ rất ít. 95% dân ta mù chữ - chữ còn không biết thì nói gì đến đọc thơ, làm thơ. Thế nên, có một người biết làm thơ thời ấy, biết tìm tòi thơ thời ấy như Bích Khê là đáng quí lắm rồi, song cũng không vì thế mà ta vội cho đó là khuôn mẫu, là tuyệt đỉnh. Ngày nay, đất nước ta đã xóa xong nạn mù chữ, đang phổ cập cấp 2, tiến đến phổ cập cấp 3, chắc chắn người đọc thơ sẽ nhiều hơn và nhất định sẽ có những đánh giá chuẩn xác hơn về những gì mà thơ Bích Khê đã đem lại cho thơ Việt Nam, cho tâm hỗn Việt Nam. Nhà thơ Chế Lan Viên có nói: Trong hồ lô của Bích Khê đã có những “tinh giống” mới. Chúng ta rất khát khao điều ấy, song cũng mong muốn trong đó không có những loại giống đại loại như ốc bươu vàng, như loài cá ăn thịt hung hãn ở rừng Amazôn. Một số bạn làm thơ trẻ bây giờ cũng có những người hoặc muốn chơi trội, hoặc muốn “có danh gì với... thơ ca” đã “đẻ” ra những bài thơ “Đầu Ngô,mình...Lu” không ai hiểu nổi.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.