“Em có về cùng tôi nơi ấy mùa thu?/ Chiếc lá thuộc bài đỏ ngợp trời thương nhớ/ Bài thơ kí thác tình đời trăm ngàn mảnh vỡ/ Mới hay cơn mưa chiều đánh thức heo may”
Tôi qua chùa Vân Hoàn/ Mây ngũ sắc vẫn nặng lời cầu phúc/ Những văn bia cứu vớt chúng sinh/ Tạc vào đá những anh hào, nhân kiệt/ Ngày hội mẫu đơn, thương nỗi lòng Từ Thức/ Chuyện tình duyên còn ấm đến bây giờ/ Mây vẫn trắng trời mà tiên – đời cách trở/ Xe mây nào là của Giáng Hương xưa?
Viếng mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng// núi Thiên Ấn chùng trong mây trắng/ dòng sông Trà lẩn khuất trong sương sớm đầu thu// tận hiếu, tận trung và minh triết thuở sinh thời/ mộ cụ Huỳnh giản dị như nhà chí sĩ yêu nước/ nắng gùi hương, thơm hoa đại trắng mỗi ngày!
Anh trở lại Mỹ Khê chiều đông giá buốt/ hương Mỹ Khê đêm xưa dậy dấu nụ trên môi/ sóng vẫn sóng choàng ôm bờ cát/ vẫn lôi cát ra và bế cát vào/ em ở nơi nao/ còn nhớ đêm ta cùng cát sóng!?
Đó là nhà thơ tự nói với mình, những gì có thể chấp nhận được, để khỏi ưu tư về cuộc thế khổ đau này. Nhìn chung, nét yêu đời lạc quan khi “nằm viện” của Phạm Minh Châu rất đáng đọc.
Đối với những nhà thơ, đây cũng là dịp họ lắng lòng mình, thành kính nghĩ suy về những năm tháng hào hùng nhưng cũng đầy đau thương mất mát mà dân tộc ta đã trải qua. Điều đó được gửi gắm vào trong những vần thơ tràn đầy cảm xúc, lay động lòng người…
người đã về/ từ bên kia đồi nghe âm vang tiếng đời bối rối/ bước chân như lá thở chờ sương rụng/ chờ run run mỏi mắt cánh chim bay/ để hát bài cuối cùng về mùa xuân/ đánh thức màu trăng cũ
Những gương mặt rạng ngời khi theo dõi bản đồ thông tin cắm cờ chiến thắng đặt nơi công cộng… Những nụ cười tươi rói hướng lên loa phóng thanh liên tục báo tin thắng trận.
Trời gió nhè nhẹ/ Trời têm chúng mình/ Têm yêu, mê đắm vào tình/ Cho ta thắm lại đập thình nhịp tim/ Cho trôi nổi rồi chết chìm/ Mặc trời mưa gió dệt đêm rì rầm/ Dệt ta những tiếng thì thầm…
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.