Được sáng tác từ lâu, nằm im lìm trong ngăn tủ, mấy mươi năm sau, các tác phẩm của Trần Dần mới lần đầu ra mắt công chúng trong sự mong đợi, ngỡ ngàng và thán phục.
Nhà thơ Việt Phương kể với tôi rằng, làm thư ký riêng khiến ông phải vì cái “riêng” đó mà dẹp bỏ đi những cái riêng khác của mình. Ông vốn lắm cá tính, có kiểu riêng, điệu riêng, cách riêng, thích thú riêng, và thậm chí cả ngang tàng riêng. Song riêng thơ ca chính là nơi ông chọn để giữ gìn một phần những cái riêng ấy. Vì vậy, “nàng thơ”, là lĩnh vực của riêng Việt Phương mà Thủ trưởng Phạm Văn Đồng không biết và không duyệt!
Thật khó để khẳng định tác phẩm kinh điển hiện nay xuất sắc hơn tất cả bản thảo cùng thời. Trong số những bản thảo thất lạc, có thể bao gồm tuyệt phẩm mà nhân loại không biết đến.
Có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tập đi sau cơn đột quỵ lần đầu. Hai mắt ông trợn trừng, hàm răng nghiến lại, tay gồng lên giữ chặt vào ghế tập đi. Hình ảnh có vẻ ngoan cường đó dường như cũng không chống nổi nỗi đau số phận của ông.
Độc giả Việt Nam từng đã được làm quen với các tác phẩm của Rabindranath Tagore từ những năm 60-90 của thế kỉ trước, qua các dịch giả Cao Huy Đỉnh, Đào Xuân Quý, Lưu Đức Trung ở các tỉnh phía Bắc, cùng Đỗ Khánh Hoan, Phạm Hồng Dung, Phạm Bích Thủy và Nhật Chiêu ở các tỉnh phía Nam…
Văn học Việt Nam 1930-1945 nói chung và thơ ca nói riêng hình thành, vận động và phát triển trên nền cảnh bùng nổ nhiều phương diện của bước ngoặt hiện đại hóa. Khi cảm quan hiện thực, quan niệm thẩm mỹ đổi thay, tất yếu sẽ dẫn đến những biến chuyển của hệ hình thi pháp. Trong ngôi nhà vừa được tân trang ấy, thơ là thể loại ghi dấu ấn nổi đậm nhất bởi được hưởng “ân huệ” từ khát vọng duy tân mạnh mẽ của chủ thể sáng tạo cùng sự ưu ái chào đón nồng nhiệt của cộng đồng tiếp nhận.
“Lịch sử vú” là một cuốn sách “có chủ đề vô tiền khoáng hậu và thành công ngoạn mục trong việc hòa trộn giữa mỹ học và chính trị”1, viết về bộ phận được cho là mang chở nhiều ý nghĩa biểu tượng nhất trên cơ thể phụ nữ.
Nguyễn Đình Chính tuổi Bính Tuất (1946). Bính biến vi tù, có lẽ ứng vào việc Chính bị giam trong cái bóng của người cha tài hoa nổi tiếng là nhà văn Nguyễn Đình Thi.
Thơ kiên nhẫn thật. Suốt những năm rõ ràng là không dễ dàng ấy, hoá ra, bạn tôi đã vịn vào những câu thơ chưa công bố của mình mà sống, sống đẹp, sống chân thành, thủy chung như một người lính
Người đàn bà gốc Huế nói giọng Đà Lạt ấy đã trải qua rất nhiều nghề: y tá, kỹ thuật viên thuốc nổ, phóng viên bản tin kháng chiến của Bộ Tài chính, làm nương rẫy ở chiến khu, từ năm 1954 hòa bình đi học để trở thành bác sĩ nhi khoa phòng y tế khu Ba Đình, Hà Nội, dịch và thuyết minh phim tiếng Pháp, phiên dịch cho phóng viên phương Tây vào chiến trường Việt Nam, rồi chính bà trở thành phóng viên chiến trường đi quay phim chiến dịch Hồ Chí Minh. Bà có mặt ở dinh Độc Lập vào đúng ngày 30.4.1975.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.