Tôi luôn băn khoăn tự hỏi: điều gì đã tạo nên những vần thơ có giá trị lớn lao mà bao năm, bao lớp người vẫn say đắm tìm đến, để UNESCO tôn vinh Người là Danh nhân Văn hóa thế giới? Vì học vấn ư? Đó là điều rất quan trọng nhưng trước đó và sau này nhiều người học rộng chẳng kém và có khi hơn Nguyễn nhưng có ai làm được những câu thơ đọng lại trong hồn người đến thế! Vì thiên phú ư? Cũng không phải! Cái trời cho chỉ chiếm một phần nhỏ trong sự nghiệp của những vĩ nhân. Đi vào những nét nổi trội nhất của thơ Tố Như, gắn vào thời đại và những bước đi gập ghềnh cheo leo của cuộc đời Nguyễn, tôi cố tìm lời giải cho nỗi băn khoăn của mình.
Đi vào những nét nổi trội nhất của thơ Tố Như, gắn vào thời đại và những bước đi gập ghềnh cheo leo của cuộc đời Nguyễn, tôi cố tìm lời giải cho nỗi băn khoăn của mình.
Đương thời, trong một cuộc phỏng vấn, nhà văn Bình Nguyên Lộc tâm sự: “Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốnHà Hương phong nguyệt truyệncủa Lê Hoằng Mưu”.
Nói đến nhà thơ Bút Tre, nhiều người chỉ biết ông là tác giả của những vần thơ mộc mạc gần với vè gây cười, nhưng có sức lan tỏa rộng lớn trong xã hội, thực sự là người mở đường, khơi nguồn cho dòng thơ dân gian Bút Tre, mà chưa biết ông với cương vị là Trưởng ty Văn hóa Phú Thọ đã có công khởi đầu triển khai nghiên cứu văn hóa thời đại Hùng Vương, trong đó ông có đóng góp lớn vào việc phát hiện văn hóa Sơn Vi và văn hóa Phùng Nguyên, là minh chứng khẳng định thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử.
Ở đây, người đọc chính là kẻ đồng sáng tạo với nhà văn. Những phương diện phức tạp trong quá trình tiếp nhận này chính là mối quan tâm của lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại. Thứ hai, người đọc được hiểu như là kẻ tiêu dùng thực tế. Anh ta là người mua sách, là kẻ liên quan đến số lượng tiêu thụ. Đây là phương diện quan tâm của xã hội học văn học. Những con số điều tra về lượng người tiêu thụ sẽ quy định số lượng xuất bản của nhà in, là một chỉ số quan trọng về sự hưng thịnh hay suy giảm của văn hóa đọc thực tế. Như vậy, nếu không có nhà văn thì đương nhiên không có văn học, nhưng nếu không có người đọc, văn học cũng không còn bất cứ cơ hội nào để tồn tại. Vì thế, song song với lịch sử sáng tạo là sự hiện diện của lịch sử tiếp nhận văn học.
Ngôn ngữ thơ Lê Huy Quang đa dạng, lời thơ đôi lúc đọc lên có cảm giác gồ ghề và trần trụi, cũng một phần bởi ông vẫn thường hay có thói quen bộc bạch ý nghĩ và tình cảm của mình: Anh lang thang em/ Anh xanh xao em/ Anh mi ni em/ Đêm về/ Anh/ tiết canh/ em (Chân dung). Ngôn ngữ đầy ấn tượng như vậy, độc đáo và rạo rực cảm xúc; có khi thẳng tắp đi đến tận cùng, nhưng cũng có khi lại uyển chuyển đến ngạc nhiên: Em/ Là vòng tròn khép kín những vòng tròn/ Từ cái trung gian/ em biến những bắt đầu ra sự cuối/ Anh lại quẩn quanh những vòng tròn nối/ gấp/ khúc/ đường/ em (Người con gái ấy).
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.