Nhân hôm nọ đọc ké cuốn sách cũ, thấy có mấy bài thơ hay của Hoàng Cầm hồi những năm 1950s, xin post lại trên Soi, kèm theo vài bức ảnh chụp nhà thơ Hoàng Cầm của Nguyễn Đình Toán.
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyên Hồng hấp dẫn nên khi còn học ở năm cuối, tôi đã viết một luận văn khoảng 100 trang về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyên Hồng rồi mạnh dạn nhờ thầy Đặng Thai Mai đọc hộ. Khoảng một tuần sau thầy Mai bảo tôi: "Tôi đã nhờ một người có thẩm quyền nhất đọc cho anh". Tôi không dám hỏi lại và chỉ biết cám ơn thầy. Vài tuần sau tôi nhận được bản luận văn do thầy Mai chuyển lại. Thầy Mai bảo: "Anh Nguyên Hồng đã đọc cho anh, chắc là anh rất vui lòng và yên tâm"...
“Mùa xuân: Tháng hai ngày mười bảy/ vào lúc rạng đông/ bao nhiêu người ngã xuống dòng sông/ máu chảy đỏ thành rạng đông gào thét/ máu chảy đỏ nóng rạng đông báo động!/ cho loài người trên trái đất xanh”. Bài thơ làm ở Cao Bằng năm 1979. Nguy hại thay, kẻ thù đánh chúng ta lúc ấy là “người bạn lớn Trung Quốc”.
Thơ 6&8 viết hay quả thực khó, chú tâm, khôn hoạt quá dễ rơi vào sạch sẽ, thậm chí láu cá, khôn vặt…, nhưng buông thả, hờ hững lại hay lẫn vào nhạt suông, sáo rỗng… Vậy mà nhà thơ Đỗ Trọng Khơi vẫn “cầm lấy cây sào”, “cái quạt”… đi trên “sợi dây mảnh” căng giữa hai đầu “Sáu” và “Tám” từ xửa xưa.
Không ai phủ nhận một điều rằng những nhà văn có tài dù công khai bộc lộ hay ngấm ngầm tuyên ngôn đều có một chút tự hào và vững tin ở ngòi bút của mình. Bởi nếu muốn đi xa được anh phải biết mình có lực thật sự hay không và tin ở tay lái của mình như người thuỷ thủ ra khơi.
Tôi cùng nhà thơ Ngô Thế Oanh đi tìm nơi ở của gia đình Phùng Cung để chuyển một chút tiền nhuận bút chùm thơ của ông đăng trên Tạp chí Thơ. Xế trưa tháng sáu nắng hè như chan lửa. Ngọc Hà chi chít những ngõ hẻo chật hẹp. Giống như bao phố làng Hà Nội. Tận cùng một trong những ngõ ấy, yên lặng khiêm nhường bao bọc lấy ngôi nhà nhỏ một tầng. Nơi Phùng Cung đã mũ áo đi về với tổ tiên. Chúng tôi xin phép thắp ba nén nhang bái lễ người quá cố. Một đời lận đận và giác ngộ bởi văn chương.
Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.
Từ 26 đến 29 tháng 7, tại Nha Trang, Văn khóa 1 Quy Nhơn đã tổ chức Hội khóa nhân Kỷ niệm 35 năm ngày nhập trường. Mai Bá Ấn là thành viên, sau hội ngộ có ghi nhật ký thơ này. BK.0rg xin giới thiệu cùng bạn đọc
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng" Sách giáo khoa Ngữ văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập “Vang bóng một thời”, xuất bản năm 1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.