Hữu Loan là nhà thơ đa tình bậc nhất. Không kể những người phụ nữ chỉ ghé qua đời ông một thời hay một thoáng, chỉ kể những người phụ nữ chính thức làm vợ ông đã là hai. Ông đền đáp tấm chân tình của họ bằng những bài thơ, trong đó có hai bài để đời: “Màu tím hoa sim” và “Hoa lúa”. Bài “Hoa lúa” dành tặng người vợ thứ hai. Bà vừa ra đi.
Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.
Trong bài viết này, chúng tôi đi vào tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ Ngô Minh, nhằm chỉ ra những đặc điểm nổi bật về nội dung thơ ông, đồng thời khẳng định vị thế của nhà thơ trong tiến trình vận động và phát triển của nền thơ hiện đại Việt Nam.
Trong thơ ca kháng chiến chống Pháp của chúng ta, công bằng mà nói còn thiếu những bài thơ tình đặc sắc. Vấn đề là ở chỗ, làm sao thổ lộ cho chân thành nỗi đắm say trong tình yêu mà vẫn hàm chứa được tình cảm cùng trách nhiệm với cái chung của sự nghiệp vệ quốc gian lao mà cũng rất đỗi hào hùng của nhân dân, của dân tộc. Bài thơ Không nói của nhà thơ Nguyễn Đình Thi, viết năm 1948 tưởng như gợi được thật nhiều cảnh huống, tâm trạng trong khoảnh khắc gặp gỡ của tình yêu giữa những tháng năm gian lao và anh dũng - những năm tháng "không thể nào quên" trong chặng đường cách mạng của dân tộc:
Thú thực đến nay, như đã nói ở phần mở đầu, tôi vẫn chưa tìm ra con người thật của ông, mặc dù đã có đôi phen được chạm đến nó. Đúng như một câu thơ ông chợt hé lộ mình trong một vài năm trước khi mất: “Trăng biết đâu lòng ta lệ đầm – Mời trăng”. Có phải ông muốn nhắc nhở lũ chúng ta, những con người phàm tục, đừng có như mặt trăng kia, chỉ biết sáng nhờ nhờ và vô tri vô giác khi xem xét lòng người hay không?
Lâu nay tôi cứ nghĩ cái cha thi sĩ họ Mai chỉ độc tôn, độc quyền cái thể thơ lục bát phá cách. Mà phải nói, dãi bày cảm xúc bằng thể thơ lục bát thì Mai Bá Ấn đang có số má trên các thi đàn văn chương. Nhiều người bình và tán thưởng thơ Ấn rồi.Tôi cũng hay dõi theo và thưởng thức sự sáng tạo cách tân rất độc đáo của Ấn. Thơ của Ấn rất bình dị gần gũi với cảm xúc suy tư mộc mạc đời thường. Có lúc tôi cũng băn khoăn tự vấn đáp : Thơ cha này hiền quá “quê” quá ít chất sexy. Tôi đã lầm. Hình như hiểu được ý nghĩ của tôi, hắn gởi cho tôi bài thơ:
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.