Hình tượng tác giả rõ ràng là một sáng tạo của nhà văn nhưng lại không giống các hình tượng nghệ thuật khác cùng tồn tại trong tác phẩm. Nó luôn cố che giấu bản thân bằng mặt nạ ngôn từ, mang tính ẩn lậu, gián tiếp. Tuy nhiên, nếu có thể lột dần chiếc mặt nạ bao bọc bên ngoài đó, ta sẽ có cơ hội tiếp cận gần hơn thế giới nghệ thuật đích thực mà mỗi nhà văn sáng tạo, gửi gắm
Tình cờ đọc hai bài viết của Nguyễn Tường Thiết con trai út của Nhất Linh: Người thừa trong làng thơ”THI SĨ” Nhất Linh và Hai vẻ đẹp của Nhất Linh, thì chúng ta mới biết thêm một khía cạnh mới về cuộc đời của ông: còn có một nhà thơ, họa sĩ trong con người Nhất Linh. Tôi xin được lược ghi, sắp xếp lại những ý chính hợp với chủ đề bài viết để chúng ta cùng tham khảo, tìm hiểu.
Tập “Ơ thờ ơ” của nhà thơ Đỗ Trung Lai là 40 bài viết sau năm 2004, mới ra mắt bạn đọc vào đầu tháng 7/2013. Với tập thơ này, bạn đọc yêu mến Đỗ Trung Lai sẽ được nghe ông kể câu chuyện “Cổ tích mới” qua tình huống ngộ nghĩnh: “Một hôm trong ngực thi nhân/ Được cấy một trái tim trẻ”, để rồi đưa đến lời lý giải: “Trần gian, cũng từ đêm ấy/ Toàn chuyện về tiên trên trời.” Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 9 bài thơ rút từ tập “Ơ thờ ơ”…
Phạm Hầu (tên đầy đủ là Phạm Hữu Hầu) sinh ngày 2-3-1920 trên miền đất Quảng Nam, mảnh đất có nhiều duyên nợ với các thi sĩ miền Trung. Cha là Tiến sĩ Phạm Liệu làm đến chức Thượng Thư triều Nguyễn, mẹ là bà Lê Thị Giảng người Thanh Hóa.
Trong thế giới nhân vật phụ nữ của Thạch Lam, ta còn gặp kiểu nhân vật dù có lúc tỏ ra tàn nhẫn hoặc mắc phải lỗi lầm nhưng vẫn cố gắng vượt lên chính mình để hướng tới những nét đẹp giản dị, thanh tao của tình cảm con người.
Tôi là người Tam Mỹ, huyện Núi Thành. Từ nhỏ tôi đã sống xa quê nên “bạn bè chê mất gốc”, “cái thằng dân Tam Mỹ chẳng ra hồn” (thơ Mai Bá Ấn). Bây giờ Tam Mỹ đã chia tách thành hai xã: Tam Mỹ Đông và Tam Mỹ Tây. Đấy chỉ là địa giới quản lý hành chính mà thôi. Với người dân quê tôi, Tam Mỹ - Kỳ Sanh mãi mãi là địa danh đầy tự hào. Mảnh đất được bao bọc bởi “con sông Trầu lờ lợ nước chè hai” (thơ Mai Bá Ấn) giàu truyền thống cách mạng với những chiến công hiển hách đã đi vào sử sách đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Văn Cao từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có cái nhìn xuyên thẳng vào hiện thực, đã nói lên cả những mặt trái của cuộc cách mạng, cả những bất trắc khó lường trong đội ngũ của ông.
Bùi Giáng luôn luôn là những nghịch lý - nhiều lần nghịch lý. Nghịch lý giữa thể xác và tâm hồn, giữa điên và tỉnh, giữa cuộc sống và khát vọng thi ca, giữa hy vọng và thất vọng, giữa tình yêu và vỡ mộng, giữa vui bất tuyệt và cô đơn ngất mù. Tất cả những nghịch lý ấy sẽ gặp nhau, tạo thành những mảnh vỡ thi ca sáng trong như ngọc và xa xót như hồn và máu đang vơi.
Công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ đã đi vào ca khúc là Chiều và Ngập ngừng, nhưng Hồ Dzếnh không chỉ có thế. Giở lại Tuyển tập thơ văn Hồ Dzếnh tuyển chọn được NXB Hội Nhà văn in từ cuối năm 2012, tôi lại thấy cần phải viết về ông.
Vì tôi đã kết duyên với một người con gái sinh ra và lớn lên bên dòng sông Nhuệ. Thuở ấy đến với nàng, lúc nào tôi cũng nghêu ngao câu hát của bài ca Người Con Gái Việt: "Quê hương tôi bên dòng sông Nhuệ, Bãi dâu mươn mướt xanh bờ..."
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.