Phần Dư luận, có nhiều bài viết khá ấn tượng của Nguyễn Trọng Tạo, Đỗ Lai Thúy, Thanh Thảo, Inrasara, Lê Từ Hiển, Lê Hoài Lương, Yến Thanh… Có nhiều bài viết công phu, đa dạng thể hiện nhiều cách tiếp cận. Điển hình như Mai Bá Ấn với “Hồ Thế Hà - Phía sông ngân vô thức”, Phan Tuấn Anh với “Thực hành thơ như là thực hành sống - thơ Hồ Thế Hà - một trải nghiệm chơi”, hay Nguyễn Trọng Hiếu với “Phức cảm trong Thuyền trăng của Hồ Thế Hà”…
Trúc Thanh có không ít những tình thơ tâm huyết, có thể làm rung cảm trái tim đời. Trong số những bài tôi thích ở thơ em: “Mong manh” là một áng thi huyền ảo và thật xúc động.
Những nhà phê bình lúc này về ông đa phần là những người trẻ, sớm thành danh trên văn đàn, thông minh và có nhiều công trình đáng chú ý, ta có thể kể đến TS Nguyễn Mạnh Tiến, TS Nguyễn Quang Huy, ThS Hoàng Thụy Anh, TS Phan Tuấn Anh, TS Mai Liên Giang... và cả những học giả có uy tín như: PGS, TS Lý Hoài Thu, nhà thơ Inrasara, TS Mai Bá Ấn, nhà phê bình Bùi Việt Thắng, Phạm Phú Phong, nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch...
Nhà thơ Trúc Thông là người tôi yêu mến và khâm phục về tài thơ của ông. Bài thơ Bờ sông vẫn gió của ông viết năm 1983 cho đến nay vẫn được xem là một thi phẩm xuất sắc viết về tình mẹ - con.
Thanh Tâm Tuyền là một hiện tuợng thơ đặc biệt góp phần cách tân thơ ca ở miền Nam sau 1954, nhưng thơ ông không dễ đọc.Người ta ca ngợi, người ta khẳng định tài năng Thanh Tâm Tuyền, và đòi phải xác lập vị trí của ông trong thơ ca Việt Nam hiện đại, thế nhưng dường như chưa có ai thực sư thâm nhập được vùng đất đai thơ Thanh Tâm Tuyền. "Người đọc theo dõi, tìm hiểu, chứ thật sự yêu thích thì không nhiều; cũng có người, có bài báo chê trách là thơ lập dị, bí hiểm, hũ nút" .
Lang thang dạo facebook, tôi “gặp” “Quê Trong Phố” của nhà thơ Nguyễn Xuân Môn. Bài thơ chỉ sau vài ngày “xuất xưởng” đã nhận được lời tán thưởng và chia sẻ của nhiều bạn đọc trên facebook: 892 lượt thích, 166 bình luận (hầu hết là lời ngợi khen) và 8 lượt chia sẻ. Những con số thật ấn tượng.
Nữ sỹ Vân Đài (1903-1964) không phải người Hà Nội gốc. Cha bà từ quê hương Nông Cống, Thanh Hóa ra định cư ở Hà Nội. Bà sinh ra và lớn lên ở Thủ đô. Nhà bà rất gần Hồ Hoàn kiếm, một biểu tượng của Dân tộc Việt Nam bất khuất anh hùng.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.