Phan Nhự Thức (còn có bút danh Mê Kung, Đạm Hải Triều, Hà Diện Đàm, Chế Phan Nguyên (họ của ba người bạn ghép lại: Chế Quân, Phan Đình Phước, Nguyễn Văn Minh)) tên thật Nguyễn Văn Minh, sinh ngày 4 tháng 2 năm 1942 (?) tại Đà Nẵng, quê nội Phú Thọ, Tư Hiền, Tư Nghĩa (nay thuộc Nghĩa Phú, Tư Nghĩa), Quảng Ngãi. Thơ ông xuất hiện trên văn đàn miền Nam giữa thập niên 1960 thế kỷ trước. Thân phận, cuộc sống, quê hương, chiến tranh, tình yêu, bạn bè là đề tài sinh động trong thơ ông. Ông chủ biên tạp chí Trước mặt, tạp chí Tập họp.
Tôi đọc ông sớm, biết ông cũng sớm. Nhưng phải đến lần cùng vào phương Nam trong mấy chuyến lưu giảng cho giáo viên đồng bằng sông Cửu Long các kì hè đầu những năm 2000, tôi mới có dịp được trò chuyện sâu cùng ông.
Trong tương quan với các thể loại khác, tiểu thuyết và truyện ngắn luôn thể hiện sự năng động và tinh thần đổi mới không ngừng. Ở đó, người viết luôn hướng về thì hiện tại chưa hoàn kết và tác phẩm trở thành nơi trải nghiệm cá nhân của những con người thích phiêu lưu, luôn nghi vấn về bản thể và tha nhân. Văn xuôi Việt Nam sau 1975, đặc biệt là từ Đổi mới xuất hiện khá phong phú hình tượng nhân vật khát khao đi tìm bản thể.
Trần Tiến người làng Điền Trì, tỉnh Hải Dương. Ông sinh giờ Dần ngày 18/11/năm Kỷ Sửu (1709), tên tự là Khiêm Đường, cũng có tên tự khác là Hậu Phủ, tên hiệu là Cát Xuyên, là con Tiến sĩ, Tham tụng Lễ bộ thượng thư - Diệu Quận Công Trần Cảnh, nhà nông học đầu tiên của Việt Nam.
Cách đây không lâu, tôi đọc được bài viết “Ảnh hưởng của thơ Đường đối với thơ mới” của TS Nguyễn Xuân Diện và Trần Văn Toàn trên Tạp chí Hán Nôm số 3 (36) năm 1998, trang 46-53, đăng lại trên blog của tác giả Nguyễn Xuân Diện (http://nguyenxuandien.blogspot.com/2010/10/anh-huong-cua-tho-uong-oi-voi-tho-moi.html). Phải nói đây là một bài viết công phu, tuy chưa lý giải thấu đáo đến mọi khía cạnh của vần đề. Một số vấn đề cần có sự trao đổi thêm. Trước mắt, tôi xin có một vài nhận xét.
Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân, thời trai trẻ Nguyễn Bính (1916-1966) rất thích xê dịch. Ông từng "lăn lóc có dư mười mấy tỉnh". Hầu như nơi nào từng đặt chân đến ông đều có thơ để lại.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.