Bài thơ buồn và chưa có câu thơ kết vì lau có rất nhiều mà tác giả chỉ xin cứ rụng lần lược một bông buồn để được như lời tác giả thổ lộ thêm: “ Người con gái đã đi xa, lá vẫn ngày ngày đổ xuống dưới hàng cây ấy, để suốt cuộc đời anh đi trong những chiều gió không em”
Ca dao cũng như tục ngữ, là nơi kết tinh, lắng đọng vốn sống và những kinh nghiệm quý báu của nhân dân. Mọi đường ăn, nết ở, mọi "phép tắc" cần ứng xử ở đời…đều đọng lại trong hơi thở của những câu ca dao, những câu tục ngữ. Và thiết tưởng cũng là hợp lẽ khi trở lại mạch nguồn này, tìm hiểu vai trò của người thầy giáo trong xã hội cũ cũng như truyền thống "tôn sư trọng đạo" được vun đắp từ bao đời nay, mà theo như cách nói của GS. Trần Đình Hượu, nghĩa là chúng ta "đến hiện đại từ truyền thống".
VCV : Nhận nhiều thông tin quanh tác giả bài thơ “ Kỷ vật cho em “ . Có tác giả còn viết nguyên một bài về vấn đề này .Để làm rõ VCV đã nhờ các tác giả có quan hệ và biết rõ về Linh Phương và các sự kiện chung quanh bài thơ này.Và thật bất ngờ ,tất cả anh em đều nhiệt tình viết cho VCV.Chúng tôi tôn trọng các tác giả nên xin đăng nguyên văn dù có rất nhiều đọan trùng lắp . VCVcám ơn Nhà thơ Vũ Trọng Quang,Hội viên Hội nhà văn Tp.HCM, Nhà báo Lâm Quốc Trung hiện đang công tác tại báo Đất Mũi Cuối Tuần, Nhà thơ Nguyễn Mộng Hòa Bình hiện đang công tác tại HTX Giao Thông ở bên Thủ Thiêm Q.2.Tp.HCM, nhà thơ Ngô Nguyên Nghiễm dược sĩ, nhà ở hiện nay vẫn dưới chân cầu chữ Y. Tp.HCM, ký giả Thiện Mộc Lan, phóng viên báo Đuốc Nhà Nam đã viết nhiều bài về Linh Phương trước 1975, hiện về quê Sa Đéc sinh sống, cư ngụ tại 79 Phan Bội Châu. Tiến sĩ DS. Nguyễn Hữu Đức tức Họa sĩ biếm Đức. Nhà thơ Vũ Ngọc Đức.Về hình ảnh và tư liệu liên quan như carte visite ,các bức ảnh chúng tôi thấy không cần thiết.Và như thế đã có đủ tư liệu vềtác giả bài thơ “ Kỷ vật cho em “.Một lần nữa cám ơn các bạn đã cung cấp tư liệu từ hai phía vàxin không trở lại vấn đề này.Nguyễn Hòa vcv
Luật sư Nguyễn Minh Tâm công bố một sự thật đau lòng: “Tình cờ, khi lên Yên Tử, tôi vào quầy sách của Ban quản lý, thấy cuốn “CHÙA YÊN TỬ, LỊCH SỬ - TRUYỀN THUYẾT DI TÍCH VÀ DANH THẮNG” của tác giả Trần Trương, Trưởng Ban quản lý Yên Tử (1992-2003), tôi đã đọc ngấu nghiến bởi sự thôi thúc của tâm linh, một niềm tin bất diệt vào sự hiển linh của Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Người Anh Hùng dân tộc và Đệ Nhất Tổ Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Đọc xong cuốn sách, tự nhiên tôi có liên tưởng đến 63 bài thơ “Thiền” của anh Hoàng Quang Thuận và thật ngẫu nhiên, tôi phát hiện ra trong hầu hết các bài thơ anh Thuận viết, đều lấy từ nội dung cuốn sách này, thậm chí có nhiều bài thơ, câu thơ còn sao chép nguyên xi câu văn của tác giả Trần Trương!”
Không bị tác động vì những ồn ào của giới truyền thông và sự nghi hoặc ở một số người, cậu bé “thần đồng” Nguyễn Bình vẫn lặng lẽ hoàn thành bộ sách của mình. 3 tập của Cuộc chiến với hành tinh Fantom đã ra mắt bạn đọc, và nhận được phản hồi tích cực. Giới văn chương nhìn nhận về hiện tượng này như thế nào? VNT xin trích ý kiến của các nhà văn Chu Lai, Trần Đăng Khoa và Bão Vũ.
Nhà thơ Đoàn Việt Bắc tên thật là Đoàn Đình Hảo, sinh năm 1949. Quê Quán: Hải Yến, Phù Tiên, Hưng Yên. Do sức ép của bom đạn trong những năm quân ngũ ông đã bị tâm thần nhưng vẫn làm thơ vẽ tranh. Đoàn Việt Bắc từng được giải B cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ năm 1976. Hiện ông sống trong một căn nhà lụp xụp tối tăm tại ngõ Văn Chương, Hà Nội. Ông vẫn tiếp tục làm thơ, vẽ tranh trong nỗi đau tận cùng của kiếp người đó.
Tôi dài dòng một chút về chuyện “sắc tộc” – bởi vì, Đồng Chuông Tử đã đem lại cho tôi sự ngạc nhiên kỳ thú : Cuộc đời anh, và Thơ anh – khiến tôi cảm thấy có cái gì lạ lạ.. Vừa trầm mặc vừa thống thiết .
Lâm Huy Nhuận đã từng viết về bố mình rằng: “Cha tôi ngồi đó/ Nghìn câu thơ vây quanh/ Tuổi cha ngoài sáu mươi/ Mang trái tim nghìn tuổi/ Đôi mắt mới lên mười/ Cái nhìn nêu câu hỏi/ Sợi tóc xòa bóng nhạc/ Xuống từng ô giấy hoa/ Con thèm được ngơ ngác/ Như cái nhìn của cha”. Nhà thơ Lâm Huy Nhuận tự biết mình không ngơ ngác, và trong veo như cái nhìn của cha ông. Người đàn ông bước ra từ cốt nhục của Yến Lan thực tế hơn, quậy phá hơn, đơn độc hơn, nổi loạn hơn khi muốn vượt phá khỏi những rào cản, những thực tế phũ phàng của cuộc sống. Lâm Huy Nhuận từng đi lính và trở về sống sót sau chiến tranh. Những người lính trở về sau chiến tranh trong cuộc hội nhập thời bình như ông nhập cuộc được với cuộc sống thời bình thật không đơn giản. Chính vì vậy mà gã đơn độc hơn, nghiệt hơn, buồn hơn trong những lối đi trên đường đời của mình.
Không thể mặc nhiên nói đến thực tiễn hậu hiện đại trong văn học Việt Nam đương đại nếu không chứng minh được những “điều kiện hậu hiện đại” của nó từ văn hóa. Nói khác đi, việc chứng thực sự tồn tại của một thực tiễn văn học hậu hiện đại ở Việt Nam chỉ có cơ sở khi người nghiên cứu chỉ ra được những điều kiện (tiền đề, hoàn cảnh) hậu hiện đại của nó trong văn hóa. Đây cũng là vấn đề chưa được các nhà nghiên cứu hậu hiện đại ở nước ta quan tâm thỏa đáng.
Năm 1980, nhà thơ Xuân Diệu đã viết một bài “Đọc sách” về tập trường ca “Đường tới thành phố”. Có thể thấy, Xuân Diệu viết với một tâm thế không được hào hứng cho lắm (có lẽ vì là thành viên Ban giám khảo giải thưởng thơ Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980, là năm tập trường ca “Đường tới thành phố” đoạt giải thưởng mà cực chẳng đã Xuân Diệu phải có bài chăng?). Bài viết dài khoảng 3.000 chữ, có khen, có chê. Phần khen chưa tương xứng với những gì tác giả tập trường ca làm được. Phần chê tuy xác đáng (với những ví dụ cụ thể), song có một chỗ tôi chưa thực tán đồng, đó là khi Xuân Diệu cho rằng tác giả không chú trọng tới nội tâm nhân vật. Đúng là ở chương cuối của tập trường ca, khi viết về không khí đón mừng chiến thắng trên đường phố Sài Gòn, vì muốn thay nhà viết sử, Hữu Thỉnh đã ôm đồm quá nhiều sự việc. Anh cố viết cho đủ, thành thử nhiều chỗ câu chữ tự nhiên như văn phong báo chí, thiếu độ lắng của thơ.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.