Trong tư thế hành động của kẻ du ca, Đỗ Thành Đồng chuyển gam sắc của bản nhạc thơ cũ sang lãnh địa của thơ tự do. Lực thơ của anh ngày càng vững, chắc hơn.
ông chỉ ra những nguồn ảnh hưởng sáng tác (truyền thống tự sự Việt Nam và văn học cổ điển Nga, Pháp thế kỉ XIX), các tác nhân văn hóa - chính trị từ Đổi mới đến nhãn quan Nguyễn Huy Thiệp khiến ông khó lòng khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại.
Karl Lubomirski sinh năm 1939 tại Hall/Tirol, Cộng hòa Áo, hiện sống tại Italia, là Chủ tịch Hội Văn bút Công quốc Lichtenstein, một cây bút đương đại độc đáo trong văn chương Đức ngữ. Thơ ông được dịch ra gần 20 thứ tiếng và được tôn vinh bằng nhiều huân chương, huy chương về khoa học và nghệ thuật, văn hóa và nghệ thuật.
Trần Ninh Hồ là người có quá nhiều tuyên ngôn về thơ. Ông bảo: Thơ là quá trình bôi và xóa. Thơ là hai trang giấy bỏ quên nằm giữa những gì chưa kịp viết. Thơ là sự bất lực của người viết, nên trước ông lúc nào cũng mênh mông giấy trắng. Và cuối cùng, hình như thơ chỉ là thơ. Tuyên ngôn về thơ như thế là quá đủ.
Yến Lan làm thơ từ chặng đầu của phong trào Thơ Mới, 1937. Khi ấy ở Bình Định có nhóm bạn trẻ làm thơ khá nổi. Họ kết thân với nhau, gọi là Bàn Thành tứ hữu, cái tên toàn chữ Hán, chắc người nghĩ ra danh xưng này là Quách Tấn, người chuyên làm thơ luật Đường. Quách Tấn cao tuổi nhất trong nhóm, sinh năm 1910. Hàn Mặc Tử sinh 1912, Yến Lan 1916, ít tuổi nhất là Chế Lan Viên 1920. Đất Bình Định không lớn, nhưng ảnh hưởng của nhóm thơ này, đặc biệt là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, vào nền thơ Việt hiện đại lại không nhỏ.
Trước năm 1975, Võ Chân Cửu sớm thành danh về thơ khi tuổi đời vừa chớm đôi mươi. Nhà thơ Võ Chân Cửu viết "Theo dấu nhà thơ", hẳn là có nhiều điều thú vị. Tập tản văn "Theo dấu nhà thơ" của Võ Chân Cửu được Công ty Sách Phương Nam liên kết với Hội Nhà văn xuất bản vào tháng 2/2015.
Ngay ở đầu thế kỉ mới, Thơ của các nhà thơ Dân tộc Thiểu số (NXB Văn hóa dân tộc, 2001) được Lò Ngân Sủn tuyển và bình, và cho ra mắt công chúng. Ngoài hai bài dân ca được biên tập, nhà thơ này đã chọn ra 33 tác giả vào tuyển. Từ thế hệ cây bút xuất hiện ngay từ thời Kháng chiến như: Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn… cho đến người mới trình làng tập thơ đầu tay: Tháp nắng (NXB Thanh niên, 1996).
Giữa thập niên hai mươi của thế kỷ trước, trải qua nhiều chặng đời sóng gió, văn sĩ Nhất Linh, người lĩnh xướng và cũng là thống soái của "Tự lực văn đoàn" tạm lánh Sài Gòn, về ẩn cư tại Đà Lạt. Ở phố núi mờ sương, trong những tháng ngày náu mình đợi thế sự đó, ông đã kịp để lại cho Đà Lạt một di sản, di sản về tên gọi các loại phong lan và địa lan.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.