Sau "Vong bướm", một thể nghiệm với chèo cổ, đã hơn 2 năm Nguyễn Huy Thiệp không xuất hiện trên văn đàn. Ông quyết định dừng hẳn nghiệp sáng tác ở tuổi 65.
Cả nhà ồn lên, ra sức can ngăn. Thôi thì đủ lời phân tích nầy nọ. Cả triệu lời khẩn khoản xin Nghĩa hãy trở về. Nhưng chịu. Bạn tôi vốn ương bướng. Trong hoàn cảnh nầy tôi cũng không thể đãi bôi được gì. Nói gì nhỉ?
Nhà văn Nguyễn Thi đã từng bày tỏ quan điểm cầm bút viết văn của mình:Trước khi trở thành nhà văn, tôi đã là người lính, nếu gặp lúc gay go tôi có thể cho cây bút vào túi áo, tay cầm lấy súng và bóp cò. Tôi cần cái không khí của chiến dịch, những cái mà mắt tôi nhìn được, tai tôi nghe được. Trước sự kiện lịch sử trọng đại nhưthế này, nhà văn không thể đứng ngoài mà ngó..
Thơ Cao Bá Quát vút lên từ một số phận. Không phải số phận của chỉ một cá nhân mà còn là của cả một dân tộc. Hàng ngàn năm, chúng ta mới có một hiện tượng văn học kỳ tuyệt và đáng ngạc nhiên như vậy. Không phải ngẫu nhiên mà trước Cách mạng tháng Tám, lúc mà thơ Cao Bá Quát chưa sưu tầm được bao nhiêu, có nhà nghiên cứu đã cho rằng “ba bốn trăm bài của Cao Chu Thần thi thảo giá ở Trung Quốc thì đã được in ra, làm cho tác giả đứng ngang hàng với Đỗ Thiếu Lăng, Tô Đông Pha chẳng hạn, nhưng ở nước ta, đành mai một”
Khi đọc những tác phẩm của G. Marquez và đặc biệt là Trăm năm cô đơn, nói một cách đơn giản nhất, tôi đã nhìn thấy sự thay đổi quan trọng trong cái nhìn của mình với chính cái làng của mình. Điều vĩ đại trong sáng tạo của Marquez là vậy.
“Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài“Khúc ca quy ẩn”như lời từ giã đời thơ. Nhân đọc bài thơ này, nhà thơ Tần Hoài Dạ Vũ viết “Quy ẩn, về đâu?”để tặng ông như một nét “lễ” của cách ứng xử trong truyền thống văn hóa.
Trịnh Công Sơn đã từng nói nhiều lần trên phương tiện thông tin đại chúng với đại ý: Chúng ta từ hư vô mà đến với thế giới này và khi chết đi thì sẽ trở về với hư vô. Vì vậy, âm nhạc và ca từ của ông đều man mác một nỗi hoài niệm về thế giới phía sau sự sống. Nhiều người đã viết về Phật giáo trong nhạc Trịnh Công Sơn; tu sĩ Nhất Hạnh cũng đã sử dụng nhạc Trịnh Công Sơn trong những bài thuyết giảng của ông.
Lần nào ngồi với nhau, Trang cũng khiến tôi thấy ù tai chóng mặt vì khả năng phát thanh hơn cả loa phường của chị. Câu chuyện của chúng tôi quanh đi quẩn lại cũng chỉ liên quan đến thi ca và Yêu. Như thể đó là nguồn cảm hứng không thể thiếu trong đời sống của chị, bên cạnh những nghĩa vụ, bổn phận, công việc hàng ngày chị phải thực hiện, gánh vác.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.