Từ năm 2000 tới nay, trong khoảng gần 15 năm các tác phẩm của nhà văn nhà báo Vũ Bằng (1913-1984) được phép trở lại “sống” với công chúng và giới văn nghệ chúng ta (nghĩa là tác phẩm Vũ Bằng được phép in lại, nhân thân và văn nghiệp Vũ Bằng được phép đưa ra bàn luận công khai),
“Cảo thơm lần giở trước đèn”, mấy trăm năm qua rồi vẫn còn thơm giữa chốn trần ai bao nỗi. Đọc truyện Kiều, thấy một đại thi hào của dân tộc lặng lẽ trong cô phòng, bên bàn văn ươm những vần thơ gieo về bãi bể nương dâu.
Tuyết Nga viết thế này: “Ta chợt nhận ra hoa hay hoa đã nhặt ta về trong một chiều xanh ngắt?” – (Hoa Tầm Xuân). Câu kéo dài, nếu ngắt làm 2 câu ở điệp phụ âm H thì lại mất liên ý trong trạng định ngữ. Và đây là một câu thơ có tự cảm, có nghi vấn, có màu sắc tưởng tượng “chiều xanh ngắt”.
Vẫn cách liên tưởng lạ, tạo dựng không gian rộng và mở nhiều lối tiếp cận, ngôn ngữ hiện đại, giàu biểu cảm, đa nghĩa…, nhưng thơ Khánh Phương đã định hình rõ phong cách, gây ấn tượng hơn trước.
Không còn nghi ngờ gì, hình thái ý thức sáng tạo từ sơ khai đến hiện đại có tên gọi văn chương, luôn say đắm một bóng dáng con người: “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và Con người cũng chỉ hứng thú với con người” (W. Goethe). Nhưng, điều hiển nhiên đúng trong sáng tạo ấy vẫn thường oái oăm khiến người đọc mỏi mắt trước trước đèn hay hụt hơi trong cuộc kiếm tìm bóng dáng Con người giữa cao ngất núi non, ngổn ngang ước lệ, tượng trưng… cho dù tất cả những thứ đó cũng một tay người sáng tạo nên.
Làm nên bức tranh văn xuôi Việt Nam sau 1986 mới lạ, đa sắc, hấp dẫn phải kể đến sự xuất hiện và bền bỉ dấn thân của lực lượng khá đông đảo nhà văn nữ.
“Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Khăn áo bạc màu dưa/ Nhắc cho người qua thấy/ Lẽ nhân đạo, thiên cơ”. Không nhiều người biết rằng, sau bài thơ Ông đồ nổi tiếng, được đưa vào Thi nhân Việt Nam (Hoài Chân - Hoài Thanh) và trở thành một biểu tượng đầy sự hoài cảm về ánh vàng son dĩ vãng... nhà thơ Vũ Đình Liên còn viết tiếp Bóng ông đồ hay Ông đồ II với những câu thơ như trên. Từ Ông đồ đến Ông đồ II là một hành trình nhận thức về cái còn, cái mất như một vòng tròn nối tiếp nhau.
Linh khí miền sông Hương núi Ngự đã hun đúc thêm khí tiết cho danh sĩ xứ Nghệ viết Truyện Kiều bằng thơ Nôm, đưa đẩy thơ lục bát lên đỉnh cao, làm rạng rỡ ngôn ngữ tiếng Việt trên văn đàn thế giới.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.