Nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết chữ thường thì cũng như mọi người, không có gì đặc biệt; nhưng viết chữ Hán và chữ quốc ngữ bằng bút lông mực tàu với khuôn khổ lớn, thì đúng như người xưa nói, thật “phượng múa rồng bay”. Tôi đã từng được xem không ít những bài thơ viết đẹp như thế.
Cho nên càng cố tình tra hỏi, càng đo (so đo, tính toán) thì lại càng lộ ra cái nghi tâm (tâm sai biệt, khác với bình thường tâm). Bởi thế, chỉ cần đếm sự vật tự nhiên nhi nhiên, thì chạm tới cái diệu tưởng. Với đôi dòng “lý lịch trích ngang” này, Bùi Giáng không chỉ “giễu nhại” Nguyễn Du (hoặc đùa cho bớt vẻ nghiêm trọng), mà chủ tâm muốn lưu ý người đọc đến bản chất con người ông, một người hoang sơ mà hiện đại, điên mà tỉnh, ngây thơ mà thấu thị.
Hình ảnh bông hoa được sử dụng thêm một lần nữa nhưng ở mức độ cao hơn, khốc liệt hơn - Rằng, một đóa hoa thơm cũng mang nỗi khổ hạnh khi trái tim tình yêu người bị đớn đau.
Nhà thơ Nguyễn Mỹ, tác giả bài thơ "Cuộc chia ly màu đỏ” nổi tiếng, ngoài tài săn bắn và bắt cá anh còn là người kể chuyện rất hóm. Có lần, anh kể cho tôi nghe một câu chuyện như sau:
Được phát biểu đầu tiên là sự ưu ái, đồng thời cũng là một khó khăn đặc biệt cho tôi khi phải mở đầu cuộc tọa đàm về một tác giả thật thú vị nhưng cũng rất độc đáo, đa diện và sâu thẳm như Bùi Giáng. Không phải là người sáng tác lẫn một người chuyên phê bình hay nghiên cứu văn học, tôi chỉ xin phép nêu vài cảm nghĩ với tư cách một độc giả bình thường đối với tác giả mình yêu thích.
Có thể cấu trúc vạch ra đây không đúng trăm phần trăm, nhưng chắc cũng có phần nào được hé lộ. Phần viết trọng tâm thứ hai của bài này: thử nêu ra Tính Thơ Huyền Ảo, điều này có màu sắc khác với Siêu Thực Huyền Ảo hay Hiện-Thực-Huyền-Ảo mà tác giả có ý định đưa vào. Phần viết thứ ba, xin thử nêu ra một thông điệp tiềm tàng trong tác phẩm, những thông điệp không phải phỏng đoán mà do những điều tác giả thường lặp lại, hàm chứa thông điệp ta bắt gặp khi đọc dù chỉ một lần.
Tâm hồn yếu mềm của Đỗ Nam Cao luôn gắn bó với đồng quê trẻ dại. Cánh cò cứ bay trong thơ ông như một niềm riêng bịn rịn. Đó là “những cánh cò lửa” trước giờ xung kích: “Ơi con cò của lòng người. Nghìn năm quen lại khiến đời xôn xao. Xuồng đi mây ửng ngọn sào. Tôi mang đôi cánh lửa vào tiền phương”. Đó là cánh cò vụt theo ngọn gió mùa màng xanh thẳm: “Mắt chợt sẫm khi cánh cò bay lả. Đậu dịu dàng lên nắng những hàng tre”. Đó là cánh cò run rẩy ý thức hướng về nơi chôn nhau cắt rốn: “Mờ xa lã sã cánh cò. Bóng cô cắt cỏ lò dò trong mưa. Tôi ngồi ngẫm dưới sao thưa. Lập lòa đom đóm hiểu chưa thấu làng”.
Với TTCT, hồn tưởng đã chết theo tháng năm kiềm nén để con tim lạnh trắng, thì chính thơ đã đến vỗ về, cứu rỗi để bật lên những dòng thơ vừa lắng đọng thâm trầm vừa cháy bỏng khát khao: “Thất thểu lề đời/ Tôi đi/ Hoàng hôn thăm thẳm/ Tìm lời ru/ Vỗ về/ Con tim trắng”. BK.org xin giới thiệu chùm thơ 6 bài của Trần Thị Cổ Tích (Mai Bá Ấn)
"Thơ phải mang dấu ấn cá nhân, và đấy chính là bản sắc. Cá nhân ấy tồn tại trong một xã hội nhất định nên nó mang "vết tích" của xã hội ấy. Nhưng, nó lại mang tính toàn cầu bởi tính nhân loại của thơ (nếu nó đã đạt tới tầm ấy)."
Cách đây 7 năm, vào dịp kỷ niệm 240 năm sinh của thi hào Việt Nam Nguyễn Du, ở Nhật Bản đã ra đời thêm một bản dịch "Truyện Kiều". Bản dịch lần này của anh Seiji Sato, có sự cộng tác của NXB Văn học, Hà Nội. Sách in trang trọng, bề thế, khổ 14 x 21 cm, bìa cáctông cứng có áo bọc, giấy đẹp, sách dày tới 250 trang.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.