Ngày ông khai bước rong chơi và từ giã cõi tạm lạc vào tháng 7 thu giăng. Cái ước mơ "rùng rợn" như văn sĩ Pháp Paul Morand, sau khi chết được người đời thuộc da mình làm vali để nối mộng phiêu du, mãi chỉ là ước mơ.
Không dấu gì quí vị, trước một tác phẩm như Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu mà nhà văn Nguyên Ngọc và nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên đều rất mực đề cao, đặc biệt nhà văn Nguyên Ngọc đã cho tác phẩm có những giá trị lớn hơn cả vấn đề thân phận con người trong khi với tôi thì xin phép tác giả Bóng đè và nhà văn Nguyên Ngọc được nói thật là không thể chấp nhận tác phẩm này. Tôi tự hỏi sao giữa mình với nhà văn Nguyên Ngọc lại có sự trái ngược nhau quá đáng thế ? Mình quá dốt nát, quá lạc hậu, bảo thủ trong khả năng nhận biết giá trị văn học ư?. Đúng là có qui luật cộng hưởng trong tiếp nhận nghệ thuật phồn tạp và đa chiều. Thôi thì đành chấp nhận Nguyên Ngọc là Nguyên Ngọc, tôi là tôi. Chả ai bắt được ai giống ai.
Thư từ là một công cụ quen thuộc để trao đổi thông tin, tình cảm. Nhưng với những người như Rabindranath Tagore, chúng được coi là một phần của di sản văn học. Dưới đây là câu chuyện về những bức thư nhà thơ gửi cho hai người phụ nữ gắn bó với cuộc đời ông.
Trong quá trình chấp bút tôi có được sự cổ vũ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông đã chỉ cho tôi viết như thế nào để cuốn sách được ra mắt bạn đọc; có được thái độ đúng mực của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu khi tôi đến xin ý kiến; có được sự tiếp sức của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ông đã trực tiếp đọc từng trang văn và viết bài “Cần lấy lại sự công bằng cho Tướng Độ”, đó là những yếu tố quan trọng giúp tôi hoàn thành bản thảo.
Đọc lại những "Giông tố", "Vỡ đê", "Số đỏ", "Làm đĩ" và những truyện ngắn khác của ông, ngẫm thấy người xưa vẫn không hề xưa cũ. Tư duy của ông vẫn rất mới, đáng để cho các nhà văn Việt Nam thời nay soi vào, và ngẫm lại mình chút ít nào chăng?
Nhân hôm nọ đọc ké cuốn sách cũ, thấy có mấy bài thơ hay của Hoàng Cầm hồi những năm 1950s, xin post lại trên Soi, kèm theo vài bức ảnh chụp nhà thơ Hoàng Cầm của Nguyễn Đình Toán.
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyên Hồng hấp dẫn nên khi còn học ở năm cuối, tôi đã viết một luận văn khoảng 100 trang về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyên Hồng rồi mạnh dạn nhờ thầy Đặng Thai Mai đọc hộ. Khoảng một tuần sau thầy Mai bảo tôi: "Tôi đã nhờ một người có thẩm quyền nhất đọc cho anh". Tôi không dám hỏi lại và chỉ biết cám ơn thầy. Vài tuần sau tôi nhận được bản luận văn do thầy Mai chuyển lại. Thầy Mai bảo: "Anh Nguyên Hồng đã đọc cho anh, chắc là anh rất vui lòng và yên tâm"...
“Mùa xuân: Tháng hai ngày mười bảy/ vào lúc rạng đông/ bao nhiêu người ngã xuống dòng sông/ máu chảy đỏ thành rạng đông gào thét/ máu chảy đỏ nóng rạng đông báo động!/ cho loài người trên trái đất xanh”. Bài thơ làm ở Cao Bằng năm 1979. Nguy hại thay, kẻ thù đánh chúng ta lúc ấy là “người bạn lớn Trung Quốc”.
Thơ 6&8 viết hay quả thực khó, chú tâm, khôn hoạt quá dễ rơi vào sạch sẽ, thậm chí láu cá, khôn vặt…, nhưng buông thả, hờ hững lại hay lẫn vào nhạt suông, sáo rỗng… Vậy mà nhà thơ Đỗ Trọng Khơi vẫn “cầm lấy cây sào”, “cái quạt”… đi trên “sợi dây mảnh” căng giữa hai đầu “Sáu” và “Tám” từ xửa xưa.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.