Bùi Minh Vũ sinh ra và lớn lên ở làng Kỳ Tân (xã Đức Lợi, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi). Hiện nay, anh sống và làm việc tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc. Anh vừa là nhà thơ, nhà phê bình, nhà sưu tầm biên khảo. Bùi Minh Vũ đã có 15 tác phẩm ra mắt bạn đọc. Nhưng trước hết, với anh vẫn là thơ.
Là nhà thơ thi hoá kinh Phật đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, Phạm Thiên Thư được coi là người mở đường cho thể loại thơ thi hoá kinh Phật. Chuyển ý kinh sang thơ, Phạm Thiên Thư đã chuyển tải tinh thần Phật pháp bằng khả năng sáng tạo của một nhà thơ Việt Nam thấm nhuần truyền thống, đạo lí người Việt và sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ Việt. Thơ về đạo của ông vì vậy không chỉ phản ánh tín ngưỡng tôn giáo trong đời sống, văn hoá người Việt, mà còn là một đóng góp có ý nghĩa cho văn học hiện đại Việt Nam.
Nhà thơ Hữu Loan có ý định xuất bản một tập “Thơ Hữu Loan” với 40 bài do đích thân cụ tuyển chọn từ năm 2004, tức là cách ngày cụ chào thế gian đi về cõi thiên thu 6 năm trước, sau khi bài thơ độc nhất vô nhị “Màu tím hoa sim” của cụ được Công ty Viek VTB mua bản quyền với giá 100 triệu VNĐ. Vẫn chỉ là tin đồn vậy thôi, đến nay chưa ai thấy mặt mũi hình hài của tập thơ đâu cả. Dù vậy tài thơ cùng những đóng góp của cụ cho cách mạng thì không ai có thể phủ nhận được.
Trần Đình Sử xứng đáng được gọi là nhà thi pháp học Việt Nam. Có thể gọi như thế, trước hết vì gần như suốt đời, ông gắn bó với thi pháp học. Ông chọn thi pháp học như một hướng đi vào khoa học ngay từ những năm 70 của thế kỉ trước, khi còn là nghiên cứu sinh ở Liên Xô. Luận án phó tiến sĩ của ông có đề tài Thời gian như một phạm trù của chỉnh thể nghệ thuật trong những tiểu thuyết viết về Lenin. Năm 1981, lần đầu tiên giới nghiên cứu văn học biết tới Trần Đình Sử và ông cũng nổi tiếng từ đấy với tiểu luận Thời gian nghệ thuật trong “Truyện Kiều” và cảm quan hiện thực của Nguyễn Du.
Sau năm 1975, đất nước liền một dải, những con người văn nghệ ở hai đầu nước Việt đứng nhìn nhau nhưng quá bỡ ngỡ, lạ lùng. Chia cắt lâu quá nên hiểu được nhau, thấu được lòng nhau có khi mất cả hàng thập niên nữa. Với nhiều người từ miền Bắc, không phải dễ dàng nhận ra những câu thơ như trẻ con của Bùi Giáng là tuệ giác. Với nhiều người miền Nam, không phải nhanh mà cảm nhận được sự trằn trọc trong thơ Việt Phương về đồng hồ Liên Xô và mặt trăng Trung Quốc…
Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.
Nhà văn Sơn Nam kể với tôi: Hồi mới lên Sài Gòn kiếm sống, một lần bà già tao từ quê lên hỏi, "Mầy lên đây làm gì để sống?” - “Viết văn!” Bà già hỏi lại, “Viết văn là làm gì?” Tao biểu bả, “Viết văn là có nói thành không, không nói thành có.” Bả nổi giận mắng, “Mày là thằng đốn mạt.” Tao không cãi, chỉ làm thinh! Sau dường như thương con quá, bả lại hỏi, “Thế viết văn có sống được không?” Tao bảo, “Viết một giờ bằng người ta đạp xích lô cả ngày!”
Nhà thơ trẻ Nguyễn Phúc Lộc Thành, tốt nghiệp Trường viết văn Nguyễn Du, đã in tiểu thuyết Cõi nhân gian (NXB Phụ nữ) và tập truyện ngắn Táo vàng tục lụy (NXB Thanh Niên). Không chỉ thành công bước đầu trong lĩnh vực văn xuôi với tiểu thuyết Cõi nhân gian được tái bản nhiều lần, Nguyễn Phúc Lộc Thành còn âm thầm đến với thơ từ nhiều năm qua.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.