Mấy thầy trong tổ Văn học Việt Nam 2 bên khoa Ngữ văn - ĐH Sư phạm Hà Nội là chúa hay đùa, thỉnh thoảng tán chuyện lại trêu chòng thầy Chú: “Người đâu mà cứ…đẹp giai mãi”. Cái câu đùa này đã có dễ đến mấy chục năm rồi, tuyệt nhiên không để nói về ai, chỉ dành riêng cho thầy Chú. Sướng thế!...
Bạn đọc bài thơ này mà như hát. Qua điện thoại, tôi có thể hình dung bạn đang nhắm mắt đắm mình vào trong từng con chữ và thế giới cảm xúc về thiên nhiên đất trời, hoà nhịp vào mạch ngầm cảm hứng của bài thơ với những hình ảnh về ấn tượng của một Hà Nội vô cùng thân thương. Tác giả phải là người có một trái tim thổn thức và một tâm hồn lắng đọng mới có thể vẽ lên một bức tranh Hà Nội qua những hình ảnh đặc trưng và thổi vào những hình ảnh này hồn thơ man mác bằng những từ luyến láy gợi cảm như thế
Trong nhiều trường hợp, với thơ, tôi lại thấy, các dấu chấm, dấu phẩy lại làm cho câu thơ bị đóng khung lại, mà bản chất thơ là tràn. Các dấu chấm, dấu phẩy đó giống như bờ ao, hồ, sông, suối cụ thể trong thực tế. Nhưng thơ giống như khi mưa lũ băng đồng, không còn bờ để mà phân biệt rõ ràng được nữa. Ngôn ngữ thơ vừa rõ ràng vừa như không thể rõ ràng được. Có lẽ đó là lý do mà một bài thơ mỗi người đọc một cách vì bản chất thơ là đa nghĩa, đa tình.
100 năm sau khi mất, tiểu thuyết gia, nhà hoạt động hòa bình trứ danh của nhân loại được cả thế giới nhớ thương nhưng lại bị hờ hững trên chính quê hương ông.
NGUYỄN TRỌNG TẠO: Anh Bùi Minh Quốc và tôi ngồi ăn trưa với hai nhà văn Công an là Thiếu tướng Khổng Minh Dụ và Đại tá Nguyễn Xuân Hải bên hồ Thiền Quang. Tôi hỏi anh Dụ: “Nghe nói anh đọc bài thơ Tổ quốc rùng mình trong cơn nhậu nhẹt của anh Bùi Minh Quốc trong một cuộc nói chuyện với các cán bộ cao cấp phải không?”. Anh Dụ cười rất hiền: “Nếu anh Bùi Minh Quốc sửa lại câu Khi nhà thơ bị bóp cổ nghẹn lời thì theo mình sẽ in được. Có ai bóp cổ nhà thơ đâu? Câu này nghe kinh quá”. Anh Quốc cũng cười hiền: “Người ta bóp nhiều thứ chứ đâu chỉ bóp nhà thơ. Riêng phải cắt cái câu ấy đi cũng đã là bóp rồi”.
Sinh năm 1835, đỗ tiến sĩ năm 1871 khi mới ba mươi sáu tuổi, một con đường công danh rạng rỡ mở ra trước mặt ông Nghè trẻ tuổi, tài hoa và có chí là Nguyễn Khuyến. Nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười hai năm rồi cáo bệnh rũ áo từ quan lui về Vườn Bùi chốn cũ vừa muốn buông xuôi mọi nhẽ, vừa canh cánh không yên: Lúc hứng uống thêm ba chén rượu / Khi buồn ngâm láo một câu thơ!
Tôi đã viết khá nhiều thơ về mưa - Thế mà, chưa được một bài thơ mưa nào thật sự hay để sướng cả. Bây giờ thì... xế bóng mất rồi, qua cả cái tuổi hoàng hôn... còn tình tọt, gió mưa gì nữa phải không các anh??? Nhưng đêm qua bỗng nhiên thèm viết một bài thơ về mưa quá! Thế mà, trời lại không mưa?... Thì viết thơ về trời không mưa vậy! Viết về trời không mưa, cũng là thơ về mưa mà...
“Mùa thu 1937 hai tập Điêu tàn và Xác thu đã được gởi về trong cùng một thùng gỗ tại nhà ga Quy Nhơn. Hai chúng tôi đến tháo gỡ thùng sách ngay tại kho ga và nhìn kỹ lại lần cuối cùng khuôn mặt thật của mình qua những trang giấy còn thơm phức (loại giấy bouffant). Điêu tàn được tung ra thị trường”
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.