Nghiệm sinh trên cõi đời 88 năm tuổi trời và 63 năm tuổi văn, Thẩm Thệ Hà đã để lại hàng chục tác phẩm dài ngắn khác nhau, bao gồm nhiều bộ môn chuyên ngành, nhiều thể loại và thể tài, nhiều hình thức và phương thức sáng tác. Trên thực tế, số lượng tác phẩm của Thẩm Thệ Hà phân chia theo thể loại có 7 tiểu thuyết (1 tiểu thuyết còn ở dạng bản thảo), 14 truyện ngắn, 14 truyện viết cho thiếu nhi, 2 vở kịch, 2 tập thơ (di cảo), 3 tác phẩm dịch, 2 tập khảo cứu, 5 bộ sách giáo khoa, 1 tập hồi ký, nhiều bài phê bình văn học đăng báo…
Khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Du khi mượn cốt truyện Kim Vân Kiều truyện là điều đã được giới nghiên cứu Việt Nam quan tâm tìm hiểu từ khá lâu. Muốn hay không, việc so sánh hai tác phẩm đã được đặt ra và thực hiện ở các mức độ khác nhau. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu so sánh này dẫu sơ lược, là rất hữu ích vì từ điểm nhìn so sánh, ta có điều kiện hiểu biết sâu hơn về Truyện Kiều.
Với hàng vạn nghĩa trang lớn nhỏ ở nước ta, biết bao loài cây đã được trồng lên. Thông dụng nhất là các loài cây cho bóng mát thường được trồng ở quanh nghĩa trang, dọc lối đi hoặc ở khoảng đất trống như thông, phi lao, bạch đàn. Tiếp đến là các loài cây cho hoa như đại, sứ, mẫu đơn, hải đường… Với các nghĩa trang liệt sĩ, còn được trồng các loại cây cảnh như sanh, si… gần với lư hương và liễu, sa mộc, bách diệp, ngâu… hai bên lối chính ra vào. Một số nghĩa trang gia đình, người ta còn trồng cạnh mộ một loài cây nào đó có nhiều kỷ niệm với người đã khuất. Một vài thập kỷ nay, có những loài cây được trồng ở một số nghĩa trang liệt sĩ không phải bằng thói quen hoặc tín ngưỡng mà bằng sự gợi ý của thi ca. Tôi xin kể một vài trường hợp.
Lớp tập huấn công tác lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật do Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trung ương vừa được tổ chức ở Đồng Nai. Một số báo chí đã đưa tin về sự kiện đáng chú ý này, tuy nhiên có những bài viết mà thông tin chưa được phản ánh một cách đầy đủ . Nhà phê bình Bùi Công Thuấn đã gửi cho Phongdiep.net bài viết này, mong muốn đưa đến một cái nhìn toàn cảnh.
Trong tập thơ vừa ra mắt thơ “Trăng và thơ đọc chậm”, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến cho biết, trong tập này có nhiều bài thơ được anh làm trong thời gian hoạn nạn.
Đến đây câu hỏi vì sao bà Vân Chung không nhận mình chính là Nữ thi sĩ T.T.Kh đã trở nên vô cùng dễ hiểu! Bởi vì qua những trang viết phần lớn là hư cấu với những tình tiết quá là thô thiển, quá là “cải lương” sướt mướt, quá là sai sự thật như đã dẫn của tác giả Thế Nhật, vậy nếu bà công nhận mình là T.T.Kh thì theo lôgic không lẽ bà cũng phải thừa nhận luôn những gì tác giả đã viết trong cuốn T.T.Kh Nàng là ai? Hay là chỉ thừa nhận mình chính là T.T.Kh còn những điều khác thì bác bỏ? quả là quá buồn cười và quá vớ vẩn phải không?.
Đọc bài của Chế Diễm Trâm trong mưa, buổi tối, Ông Đoàn Phú Tứ ghé qua uống trà và tôi hỏi: bài thơ bất tử phải có một tình yêu lớn, phải không ông? Ông trả lời là phải có một tình yêu bất thành và cao cả. Ông nói vui vì có người viết về ông công phu và hiểu ông. Tôi mong sẽ có dịp giới thiệu Trâm với ông. Ông mỉm cười và lững thững ra đi.
Ngay sau khi em trai Marquez chia sẻ, tác giả "Trăm năm cô đơn" bị giảm trí nhớ và rơi vào tình trạng lú lẫn, nhiều độc giả đã bày tỏ nuối tiếc trước sự chấm dứt của một sự nghiệp văn học lẫy lừng.
Truyện Kiều có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và văn học của dân tộc ta. Một nhà văn ở đầu thế kỷ XX đã ví Truyện Kiều như tờ “trước bạ” ( giống như khái niệm “sổ đỏ” hiện nay) để hình dung vai trò của tác phẩm đối với việc xác định tư cách văn hóa của người Việt, chủ nhân chân chính của giang sơn gấm vóc. Nếu thiếu đi tác phẩm, chân dung văn hóa của dân tộc ta không thể trọn vẹn. Sức sống và sức hấp dẫn to lớn của kiệt tác đối với người Việt Nam đã khiến cho nhiều học giả nước ngoài quan tâm dịch thuật và nghiên cứu Truyện Kiều như một cách tiếp cận hiệu quả tâm lý, tính cách người Việt.
Khoảng hậu bán thế kỷ 20, văn học Tây phương có một hiện tượng bộc phát là ra đời chủ nghĩa nữ tính. Cũng đúng thôi, bởi vìphái nữ chiếm một nữadân số trên toàn cầu, văn học lâu nay ít nhắc đến họ là một thiếu sót lớn. Do đó từ hậu bán thế kỷ 20, bản thânphái nữtự đúng lên đề xuất chủ nghĩa nữ tính và đã chiếm được một địa vị quan trọng .
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.