Điểm tôi rất lấy làm tâm đắc là ba bài thơ được nhà thơ viết ở ba khoảng thời gian trước, trong và sau khi ở tù, với các vị thế rất khác nhau song tâm thế và cảm hứng không thay đổi: an nhiên, tự tại, tin tưởng vững chắc vào tương lai.
“Ngàn thu” đã “rớt hột”, cách thế đã rồi của sự thể Bùi Giáng. Vậy thì việc đặt vấn đề mở đầu cho vài ba suy tưởng về Bùi Giáng, cơ hồ, chỉ càng khiến cho chậm trễ sự “rớt hột” sao băng giữa trời đêm khuya hoắt lặng lờ. Nói vậy cũng tức là tìm đến thơ Bùi Giáng cầm bằng đổ ngã lập tức vào từ trường thơ và đạo thơ của họ Bùi.
Thế mà rồi tôi có ngày đã gặp ông bằng xương bằng thịt, còn “kề vai sát cánh” với ông 2 ngày 2 đêm nữa, trong đó có mấy tiếng đồng hồ tung hoành với nhau trên sân khấu trong một đêm “Khúc thụy du với Pleiku” ngay tại thành phố Pleiku.
Ngày nay, di tích thành Cổ Loa vẫn còn và được cấp bằng Di tích Quốc gia. Nhưng căn cứ vào nền móng cung điện cũ, có lẽ kinh đô trước đó không phải là Loa Thành.
Vừa là học giả, là nhà nghiên cứu, là dịch giả, là thầy giáo… nhưng sau hết ông là một thi sĩ đã để lại cho đời vô số giai thoại nửa thực nửa hư, bi hài trộn lẫn.
Một lần gặp gỡ gần nhất, khi được hỏi vị trí những tác phẩm viết về chiến tranh trong “gia tài” thơ Thanh Thảo, ông đã trả lời: “Những tác phẩm ấy, trước hết, có chỗ đứng trong lòng tôi, trong tâm hồn tôi. Nếu anh gọi tâm hồn tôi là gia tài của tôi, thì thơ về chiến tranh và người lính của tôi nằm gọn trong đó”. Câu trả lời của ông chính là tinh thần “mở” cho cuộc trò chuyện với Tạp chí Văn nghệ Quân đội số này.
Gần đây cuốn hồi kí cuối đời của ông, Ánh sáng và Bóng tối trên châu Âu, không chỉ xuất hiện một lần, mà đến hai lần thông qua hai bản dịch khác nhau. Từ đó cho thấy sự ảnh hưởng của Zweig là rất lớn và kéo dài tận đến ngày nay.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.