Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn nhớ lại: “Năm 1973, tôi được mời đến dự đám cưới Vũ-Quỳnh ở nhà hàng Kinh Đô phố hàng Buồm. Mối tình này đã thành gần như huyền thoại trong giới văn chương Hà Nội những năm 1970-1990 của thế kỷ trước, và để lại cho hậu thế những bài thơ tình, những vở kịch giá trị .Và Quỳnh đã sinh cho Vũ một bé trai kháu khỉnh và tài năng, là cháu Quỳnh Thơ. Mới mười tuổi, cháu đã có tranh vẽ và thơ đăng báo. Gương mặt sáng và vẻ lanh lợi thông minh, cháu thực sư là tinh hoa những nét đẹp trong ngoại hình và tính cách của bố Vũ, mẹ Quỳnh. Nhưng tất cả đã không đươc lâu bền… Những ngày Quỳnh bị bệnh tim vào nằm ở bệnh viện Hữu Nghị, có hôm, vì cùng cơ quan, nhà thơ Bằng Việt và tôi rủ nhau vào thăm. Quỳnh xanh gầy, vẻ mệt mỏi nhưng vẫn làm được thơ, bài “Thời gian trắng”. Chúng tôi nghe Quỳnh đọc nho nhỏ, mà mắt đứa nào cũng rưng rưng. Vậy mà Quỳnh không mất vì bệnh tật, mà vì một tai nạn giao thông rất bất ngờ…”
Không hề chối bỏ dòng chảy bi thương, ai vãn của ca dao, Quan họ, chiếng chèo đồng quê Bắc bộ mà hồn hậu đứng trong nó như một thứ gia phả tinh thần, Hoàng Cầm đồng thời đã khơi trong thơ một mạch hùng tráng, cao cả, của nỗi khát khao trời rộng bể khơi mà cho đến hết thời kỳ Tiền chiến, thơ Việt chưa bao giờ có được sự biểu đạt trọn vẹn. Cái tráng tâm, cao cả trong thơ Hoàng Cầm không giống như “mối sầu vũ trụ” bàng bạc mà người ta dễ dàng gán cho một số nhà Thơ Mới. Ông dám đem lòng mình trang trải nợ vô biên, đem cái nghịch biến trớ trêu của vũ trụ cao xanh hoá giải những đau thương, uất khí của sinh linh hữu hạn. Không hùng tráng, uy nghi, cao cả, không khát khao vô tận, thì cũng đâu còn là phút thăng hoa của một giống nòi nhỏ bé phải chịu cảnh giam cầm.
Từ khi chào đời, Đoạn trường tân thanh – khúc Nam âm tuyệt xướng này đã trở thành cuốn sách của mọi nhà, của ức triệu lòng người; và tác giả của kiệt tác số một của văn học dân tộc này cũng được tôn vinh là thiên tài thi ca lớn nhất Việt Nam cho đến hôm nay. Thiên tài lớn, trước nhất và quan trọng nhất phải lớn về tư tưởng. Dĩ nhiên, đây là tư tưởng nghệ thuật, nó được biểu hiện trong thế giới nghệ thuật và bằng một nghệ thuật tài tình bậc thầy.
… Trần Dần yêu T.C., cuối cùng phải thôi. Dần nói: “Suốt đời tao estimer T.C., tao đau lắm!”. Rồi Dần thắc mắc với Hoàng Xuân Tùy về chuyện đi làm phim Điện Biên Phủ, và nói: “Cán bộ văn nghệ là con nuôi, cán bộ chính trị là con đẻ” – Từ đó mà đi đến khẩu hiệu “Trả văn nghệ về cho văn nghệ” một cách quá khích.
Thạc sỹ văn học Nguyễn Văn Dũng - Giáo viên một trường PTTH ở Đồng Tháp vừa bảo vệ xuất sắc Luận văn với đề tài "Đặc điểm thơ Thanh Thảo". Bichkhe.org xin trích giới thiệu một phần trong Luận văn của anh cùng bạn đọc.
Có một câu chuyện thú vị như thế này: Hỏi chuyện thơ trước giao thừa thế kỷ do nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình thực hiện với chủ đề được đưa ra là: “Nếu chỉ được mang theo 5 bài thơ hay nhất về chiến tranh cách mạng và anh bộ đội Cụ Hồ vào thế kỷ mới, thì anh sẽ chọn những bài thơ nào? Của ai?”. Và nhà phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình đã mang câu hỏi đó đi gõ cửa các nhà thơ, nhà phê bình khác nổi tiếng trong quân đội theo cách chọn lựa của ông. Trong 8 cái địa chỉ Ngô Vĩnh Bình chọn lựa, thì có đến 6 người chọn bài thơ Tây Tiến.
Tập sách Cây bút, đời ngườicủa Vương Trí Nhàn tập hợp 12 bài viết về 12 nhà thơ, nhà văn Việt Nam hiện đại, là một cuốn sách thuộc thể loại “Chân dung văn học”, một thể loại vào loại khó viết. Khó viết bởi nó liên quan đến việc xác định chân giá trị cũng như đẳng cấp của các nhân vật mà việc xếp hạng các nhà văn, nhà thơ là điều rất tế nhị và phức tạp!
Nguyễn Đức Trung chính là người nhóm lại những lá sầu đông buồn, đồng thời cũng là người gom từ nỗi sầu đời nhóm lên ngọn lửa thơ nồng ấm nhân tình. Xin được chân tình giới thiệu “Nhóm lá sầu đông” của Nguyễn Đức Trung cùng bạn đọc.
Thay vì chiến tranh, tại sao không phải hòa bình?Câu thơ - Câu hỏi như một phán xét quá khứ, nhắc nhở hiện tại và khát vọng của tương lai. Câu thơ – Câu hỏi dành cho mọi người, từ các vị nguyên thủ quốc gia đến thường dân. Hàn gắn những vết thương dĩ vãng cũng là lối dẫn tới hòa giải, hòa hợp, hòa bình. Thiết tha hơn cả thiết tha. Đòi hỏi hơn cả đòi hỏi. Ước mơ hơn cả ước mơ.
Dẫu biết vậy, thầy vẫn lần lượt hiến dâng cho đời 4 tập thơ: “Viết dưới mái trường”, “Lục bát làm liều”, “Và bốn chung quanh” và gần đây nhất là tập thơ “Thị trường lục bát” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành, năm 2008. “Đọc tập thơ “Lục bát làm liều” của Mai Bá Ấn, tôi đã thấy rất nhiều bụi bặm trong những con chữ đa đoan của anh”... “Với “Lục bát làm liều”, Mai Bá Ấn đã liều mạng một cách tài ba với những con chữ dân dã” (Nguyễn Xuân Hoàng). Đến “Thị trường lục bát”, thầy tôi vẫn cái phong thái rất riêng ấy: “Cái riêng ấy chính là cái mới của một thể thơ cũ. Trong cái trôi, cái chảy, cái lưu loát của Mai Bá Ấn vẫn có cái nghèn nghẹn. Ấy là khi dòng suối lục bát tự than lên, thốt lên, kêu lên một nỗi gì”(Thanh Thảo).
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.