Có gì là chung, chẳng hạn, giữa tác phẩm Thi học của Aristot với một bài viết nhỏ thông tin về sách mới hay bình một chữ, một câu thơ mà ta thấy đầy rẫy trên báo chí hiện nay? Nhìn bề ngoài dường như giữa chúng chẳng có gì là tương đồng cả. Vậy mà, nói chung, chúng đều là phê bình văn học. Bản thân nội dung khái niệm phê bình văn học (critique) không mấy rõ ràng. Mỗi thời đại có những cách hiểu không giống nhau về phê bình văn học. Có bao nhiêu trường phái thì có bấy nhiêu quan niệm về phê bình. Sau đây tôi xin liệt kê ra một ít để thấy sự phong phú và khác biệt đó, để thấy phê bình văn học là một khái niệm khó nắm bắt.
Quy chiếu vào hành trang thơ của Nguyễn Minh Dũng, Nếu “Hoa cao su” “ấm áp, chan chứa tình người, tình đất” (theo đánh giá của Phạm Minh Dũng) thì “Sương khói nẻo quê” vẫn tiếp theo lộ trình ấy nhưng trọng tâm tình cảm và hình ảnh thơ chủ yếu dành cho Mẹ và Em. Tình cảm sâu nặng, chân chất với Mẹ và Em thấm đẫm hầu hết 79 bài thơ. Đó là chất xúc tác, là men nồng làm nên giá trị nhân văn trong “Sương khói nẻo quê”.
Không ít người nói không biết lúc nào Trần Đăng Khoa nói thật, lúc nào Trần Đăng Khoa nói đùa, vì nhiều khi anh đùa như thật, mà có lúc thật lại như đùa. Nhưng có một điều, khi nói về lính, và đặc biệt về lính biển, Trần Đăng Khoa chưa bao giờ tếu táo.
Với khuynh hướng thứ nhất, nếu sự mâu thuẫn, thiếu hợp lí về phương diện cấu trúc, sự pha trộn các văn bản có kiến tạo khác nhau trong phạm vi tổ chức của một văn bản duy nhất, tính không xác định ngữ nghĩa chỉ là những dấu hiệu ngẫu nhiên, “không hoạt động”, bị loại khỏi siêu cấp độ mô hình hoá văn bản, thì với khuynh hướng thứ hai, chúng lại là những đối tượng được chú ý đặc biệt.
Nguyễn Phan Quế Mai tâm sự: Chiến tranh đã lùi xa ba mươi sáu năm. Vậy mà khi tôi về Hà Tĩnh, quê hương của mười cô gái Ngã ba Đồng Lộc, thấy xót lòng khi chứng kiến quá nhiều người phụ nữ phải bỏ quê, bỏ con cái tha phương kiếm sống. Tôi gặp một người phụ nữ trên 50 tuổi, trên tay đang cầm quyển hộ chiếu để sang Đài Loan làm giúp việc gia đình. Hai đứa con của chị khóc lóc van xin mẹ đừng đi. Buổi chiều hôm đó, tôi thắp hương tại Ngã ba Đồng Lộc, tự cảm thấy mình có lỗi trước sự hy sinh của những người đi trước. Tôi viết hai bài thơ “Hai nẻo trời và đất“ và “Đồng Lộc“ từ những trải nghiệm kể trên. Ngày thương binh liệt sĩ năm nay, khi thắp hương tưởng nhớ đến sự hy sinh của các liệt sĩ, tôi cũng muốn thắp lên hy vọng rằng những người ở lại sẽ làm nhiều hơn nữa để hài cốt của các liệt sĩ được đoàn tụ cùng gia đình, để nỗi đau chiến tranh được xoa dịu, và để thế hệ trẻ luôn ghi nhớ và trân trọng rằng hòa bình đã được đổi bằng bao máu xương của những người đi trước.
Trước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.
Đầu những năm 1970 của thế kỷ trước, ở Liên Xô cũ nhiều người rất ít liên quan tới đông phương học thường đến nghe giáo sư triết học, nhà văn Nga Aleksandr Moissevich Pyachigorsky giảng về đạo Phật, - họ đến chỉ cốt để thưởng thức cái dòng suy nghĩ thông minh và phóng túng. Những bài nói chuyện của Pyachigorsky là triết học trong nghĩa cao siêu, khởi thuỷ của từ này. Không phải là những lập luận khô khan, mà là một câu chuyện hấp dẫn liên quan tới mỗi con người. Đọc sách của Pyachigorsky là một chuyện, nghe ông nói trực tiếp lại là chuyện khác. Có thể đàm đạo một cách lí thú với ông về bất cứ đề tài nào, nghe ông nói đến vô cùng tận. Sau đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện của ông với phóng viên báo "Knizhnoye obozrenye" về vấn đề lịch sử tiểu thuyết.
Văn học dành cho nữ giới (VHDCNG) - Chick lit là một dòng văn học khá mới mẻ của văn học thế giới, định hình và chính thức được thừa nhận trong hơn một thập kỷ trở lại đây. Trong quá trình đó, không ít tác phẩm của dòng văn học này đã gặt hái được những thành công to lớn. Điều này khiến nhiều tác giả trẻ, đặc biệt là những tác giả nữ đã coi đây là một mảnh đất màu mỡ để lập danh trên văn đàn quốc tế.
Phạm Tiến Duật được mệnh danh là nhà thơ của Trường Sơn, thi sĩ huyền thoại của đường mòn Hồ Chí Minh những năm chống Mỹ. Ông từng bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn”.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.