Gắn lòng trên 30 năm trên bục giảng, vừa dạy học vừa làm thơ. Nghề nuôi hồn, hồn thành thơ, vỗ về nhau vượt qua bao gian khó của cả đời nghề và cả đời thơ. Thơ của một người thầy, nên thiệt lòng. Viết về học trò nên lại chơn chất, không hoa mỹ. NHân Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), BK.org xin giới thiệu một chùm thơ nghề của Mai Bá Ấn.
Đóng kín các ô cửa để cái lạnh trở mùa không ùa vào phòng riêng, tôi mở đĩa nhạc, thả hồn mình vào những ca khúc của Dạ. Phần lớn ca khúc trong đĩa Dạ phổ nhạc, gồm những bài thơ trong tập "Hồn đầy hoa cúc dại" Dạ tặng tôi năm 2007. Hồi ấy nàng chưa có dấu hiệu bất bình thường. Hồi ấy tôi đọc xong, chỉ thấy cái buồn nó man mác theo tác giả, rồi bao nhiêu bộn bề thường nhật, có lúc đã lãng đi...
Gia Lai tự hào là có một đội ngũ nhà giáo làm thơ khá đông đảo. Đội ngũ này từng làm nòng cốt cho sự hình thành và phát triển của hội Văn học Nghệ thuật Gia Lai. Kỷ niệm ngày Nhà Giáo năm nay, chúng tôi xin giới thiệu một chùm thơ của các thầy cô giáo Gia Lai, như một cách điểm lại đội ngũ và bày tỏ sự kính trọng họ. Từ người đã thành danh, trở thành Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam như Hương Đình, đến những người mới viết nhưng đã khá quen tên như Lê Vi Thủy, Lê Thị Kim Sơn, từ Nhà giáo ưu tú như Hồng Nguyễn (Nguyễn Trường Thanh) đến cô giáo đang dạy tận xã vùng xa Ia Rmok huyện Krông Pa mà tôi chưa biết mặt như cô giáo Trần Thị Mai Hương. Ở giữa đấy là Ngô Thị Thanh Vân, Nguyễn Như Bá, Nguyễn Thu Nguyệt,…
Và bây giờ, bước sang thế kỉ 21, nhiều vận hội mới đã mở ra cho văn chương nước nhà. Trong khi chúng ta từng bước nỗ lực hiện thực hóa khát vọng “đưa văn chương hội nhập quốc tế”, thật cảm động có những người yêu Việt Nam, đã tìm đến Việt Nam, nỗ lực từng bước đưa văn chương Việt tiến bước mạnh mẽ ra khỏi biên giới quốc gia. Dịch giả Điền Tiểu Hoa là một đại diện tiêu biểu.
Nếu ngắm nhà thơ Lê Huy Mậu hiện lên trong âm bản phim chụp máy cơ xưa, ắt sẽ thấy xù xì góc cạnh, với ánh mắt trắng dã như hăm dọa người soi phim, thêm gương mặt có phần dữ dội. Ấy vậy mà ngoài đời anh hiền lành hết chịu nổi. Đó chính là bản màu của anh, nom cục mịch không có dáng của một thi nhân. Ngỡ như một kẻ vai u thịt bắp, thì anh lại khoan thai, lưa thưa đưa mắt nhìn đây đó, thỉnh thoảng cười rất tình.
Năm 2013 sắp kết thúc. Khi bình chọn các sự kiện văn học nghệ thuật trong năm, tôi tin sẽ có một sự kiện được nhắc đến nhiều, đó là Liên hoan các vở diễn của Lưu Quang Vũ tại Hà Nội để kỷ niệm 25 năm ngày mất của tác giả.
Trong bài nói chuyện tại Yale Political Union1ngày 23/4 năm nay, Meena Alexander bắt đầu với một trích dẫn từ bài luận năm 1821 của Shelley, “Sự biện hộ của thơ ca”. Kết luận – “Thi nhân là những nhà lập pháp không được thừa nhận của thế giới” – dẫn đến cuộc tranh luận sôi nổi. Sau đây là phiên bản đã sửa chữa đôi chỗ của bài nói chuyện mà Meena đã trình bày.
Như vậy, làng trong tác phẩm Nam Cao vừa là thực thể xã hội vừa là thực thể văn học được kiến tạo bởi những dự đồ nghệ thuật của tác giả, xứng đáng cần được soi chiếu từ nhiều góc độ. Ở bài viết này, tôi bước đầu sử dụng góc nhìn nhân học văn hóa.
Năm 1946, trong căn nhà hoang Mộc Kiều Trang ở Rạch Giá, mới 17 tuổi Kiên Giang đã sáng tác bài thơ "Tiền và lá", khởi đầu một đời văn chương tài hoa. Đọc cho thầy - nhà thơ Nguyễn Bính nghe, thầy khen nhưng sửa lại vài chỗ. Câu: "Tiền không là lá em ơi/Tiền là giấy bạc của đời phồn hoa", Nguyễn Bính đổi thành: "Tiền là giấy bạc của đời in ra". Câu cuối: "Chợ đời họp một mình tôi. Phiên chiều" được sửa lại là: "Chợ đời họp một mình tôi vui gì!"... Không hay thơ vận vào đời.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.