Nhà văn Trung Quốc Liên Thục Hương lấy bút danh là Liên Gián khi viết truyện, tản văn, tiểu thuyết, các truyện dài kỳ trên các chuyên mục báo tuần Trung Quốc. Hiện Liên Thục Hương sống ở Thanh Đảo, là nhà văn tự do, hiện giữ các chuyên mục văn chương tình yêu trên tạp chí thời thượng, giống Trăn Sinh. Đến nay Liên Thục Hương đã viết lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ, bà thú nhận là vì bà thích được nhận những khoản nhuận bút lớn một chút.
Trong cuốn “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh – Hoài Chân nhận xét: “Mặc dầu cảnh Huế cơ hồ Xuân Tâm không nói đến, không khí sông Hương, núi Ngự vẫn mang mác trong thơ Xuân Tâm. Tìm kiếm Xuân Tâm hoài, tôi chỉ thấy một ít Xuân Diệu, một ít Huy Cận và rất nhiều Huế. Một Xuân Diệu không tha thiết, một Huy Cận không buồn mênh mông, một xứ Huế không có cái bâng khuâng của Phan Văn Dật, cái vẻ tài hoa của Nguyễn Đình Thư, cái dáng non yếu của Mộng Huyền, cái vẻ ngây thơ của Thu Hồng, cái ẩn ước của Thanh Tịnh. Huế ở đây trong sạch, đứng đắn và nhất là có chừng mực.
Trong thời khắc cái lạnh chớm đến của đầu mùa đông, tôi lại bàng hoàng xúc động khi đọc trên internet của Nga một tin dữ: Nữ nhà thơ Nga lỗi lạc Bella Akhmađulina đã qua đời vào chiều 29 tháng 11 năm 2010 tại Perenđenkinô thuộc Vùng Matxcơva, hưởng thọ 74 tuổi.
Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến thể loại truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là“xung kích” của đời sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật đầy cam go…
Tiếp cận một bài thơ, người đọc cần nhận diện các lớp sóng khuất lấp. Rồi thâm nhập, bóc tách, giải mã chúng để dần chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật. Đến với thơ Trương Đăng Dung, người đọc phải tuân theo quy trình đó. Thơ ông chứa một thế giới phi lý, nghiệt ngã, bất an. Một thế giới ngổn ngang, đầy những giới hạn. Một thế giới trống rỗng, xác xơ. Thế giới ấy được giải phẫu bằng tư duy của một nhà thơ mang tâm thức hậu hiện đại.
Lúc mới nhập ngũ, tôi ở một đơn vị Ra-đa đóng quân trên đất Hưng Yên nổi tiếng với đặc sản nhãn lồng và những cô thôn nữ đa tình xinh đẹp. Nói đa tình vì các cô thôn nữ ở đây rất thích có người yêu là lính. Mặc dù cái câu ca “Ai ơi chớ lấy binh nhì / Năm đồng một tháng lấy gì nuôi con” được truyền lan rất rộng, nhưng cánh lính binh nhì chúng tôi kiếm người yêu không khó khăn gì. Nhát gái như tôi mà chỉ sau một tuần, tôi đã có người yêu khá xinh, và nếu như lúc đó, tôi muốn có vợ thì bố mẹ cô gái sẽ cho cưới ngay!
Giọng ông như từ xa vắng dội về. Đôi mắt ông hướng vào trong, mạch hồi tưởng thức dậy cái chuỗi ngày ngót 60 năm về trước: Hồi ấy ông công tác tại Tỉnh đoàn Nghệ An, thường đến gặp bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm (chị gái và anh trai Bác Hồ) để tìm hiểu tư liệu.
Báo điện tử Hội Nhà văn Trung Quốc (www.chinawriter.com.cn), ngày 18-12-2008, truy nhập bài của nhà lý luận phê bình văn học Trương Đồng Ngô (quê cha đất tổ Lạc Đình, tỉnh Hà Bắc, sinh năm 1939, tại thành phố Cáp Nhĩ Tân. Hội viên Hội Nhà văn Trung Quốc. Đã từng làm chuyên viên nghiên cứu Ban Nghiên cứu Sáng tác Hội Nhà văn Trung Quốc. Hiện là Tổng thư ký của Hội Khoa học thi ca Trung Quốc và của Bút hội Thi nhân Hoa văn Quốc tế. Đã xuất bản trên 10 bộ tác phẩm về lý luận phê bình văn hoc, tạp văn, thơ, truyện, v.v… Ba lần được Giải thưởng Sách ưu tú toàn quốc và Giải thưởng Tản văn ưu tú toàn quốc) phân tích tình hình phát triển của thẩm mỹ thi ca Trung Quốc trong 30 năm cải cách mở cửa. Chúng tôi giới thiệu toàn văn bài nghiên cứu trên để bạn đọc tham khảo.
Tôi đã gặp ông một lần rất vội trong chuyến trở về Việt Nam dự Hội nghị quảng bá văn học nước ngoài. Ấn tượng về một con người có vóc dáng nhỏ, nhưng đôi mắt đặc biệt sáng, với một túi đầy ắp bản thảo thơ rong ruổi trên những dặm đường thiên lý đã khiến tôi tò mò về con người đặc biệt này.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.