Người Thanh Hóa tự hào vì có hai ông Mai Linh nổi tiếng: Một Mai Linh Taxi và một Mai Linh nhà thơ. Ông Mai Linh nhà thơ mà chúng ta sẽ gặp gỡ trong bài viết này là người không thích đọc thơ mình trước đám đông, rất ngại ngùng khi được giới thiệu là nhà thơ.
Tháng 7.1945, Huy Cận tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc. Khi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Huy Cận được vinh dự đảm nhận trọng trách Bộ trưởng Bộ Canh nông, kiêm Thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ hồi ấy chỉ có hai người: cụ Bùi Bằng Đoàn (nguyên Thượng thư Bộ Hình của triều đình Huế) và Cù Huy Cận. Nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra đặc biệt là chấn chỉnh kịp thời những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ nhằm đề cao kỷ cương phép nước, tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng. Đoàn Thanh tra đã đến nhiều địa phương nắm bắt tình hình, xử lý kiên quyết và khôn khéo những cán bộ mắc khuyết điểm, sai lầm. Những việc làm của Thanh tra đã được nhân dân nhiệt tình ủng hộ vì họ thấy Chính phủ Cụ Hồ luôn bênh vực bảo vệ dân...
Gần nửa thế kỷ qua đã có nhiều sách báo viết về chuyện những người tình thơ của Hàn Mặc Tử, trong đó có chuyện Hàn Mặc Tử yêu Hoàng Thị Kim Cúc (tức Hoàng Cúc) và viết nên bài thơ bất hủ Đây thôn Vỹ Dạ.
Trong ký ức nhà thơ Vương Trọng: “Gia đình bác Trần Lê Văn trong một thời gian dài khá chật vật về kinh tế. Bác trân trọng từng khoản nhuận bút bé nhỏ và tỏ ra thật vui mừng khi cán bộ biên tập báo mang đến. Ngoài viết báo ra, bác còn tìm cách làm các thứ khác nhằm có thêm thu nhập.Nhưng với một nhà thơ xuất phát từ Hán học như ông, ngoài chữ nghĩa ra, còn biết làm nghề gì đươc? Có một dịp tết, bác viết câu đối và tặng chữ cho khách thập phương ở Văn Miếu. Ai đưa tiền bác cũng nhận, nhiều ít không quan tâm, nhét ngay vào túi áo bành tô. Ngồi khom lưng làm việc lâu giữa chốn đông người, mồ hôi trán toát ra trong gió mùa đông bắc, bác bèn cởi cái áo bành tô ra cho đỡ nóng. Cuối buổi khi xong việc bác nhìn quanh không còn thấy chiếc áo “gia bảo” đâu nữa, vì kẻ gian nào đã cuỗm mất từ khi nào, bác mất áo và mất luôn khoản tiền trong túi! Buổi trưa mặc áo sơ mi, bác đạp xe về nhà tái xám vì rét. Sau đó mấy hôm, bác có làm một bài thơ bi hài về chuyện mất áo này”
Họ là trí thức chăng? Vì từ ấy vang lên với rất nhiều ý nghĩa, nên tốt nhất, chúng tôi sẽ gọi họ là người viết. Vấn đề là thế này: rất có thể vì hiện nay chúng ta đang sống ở một giai đoạn lịch sử bất ổn, khi mà cả hai chức năng nói trên cùng tồn tại, nên tôi muốn phác hoạ đôi nét có tính chất so sánh loại hình giữa nhà văn và người viết, dẫu chỉ là so sánh ở bình diện chất liệu chung mà họ cùng sử dụng: lời nói.
Hình như con-người-thực của hình tượng này lại có sự đồng điệu, tràn đầy hứng khởi với con-người-phong cách của Thanh Thảo: phóng túng và suy tư mà cũng rất đỗi chân thành. Cảm xúc và ý tưởng ấy lại hợp hòa với giọng điệu thơ tượng trương – siêu thực – một trường phái thi ca và nghệ thuật ở phương Tây, ở Pháp đầu thế kỷ XX. Có lẽ cũng bởi thế, từ tên bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca cùng lời đề từ của chính nghệ sĩ Tây Ban Nha (Ph.G.Lor-ca), vừa mang tính khách quan của sự phản ánh một con-người, lại vừa chứa đựng sự kí thác tâm tư của một nghệ sĩ đa tài – xứ xở đất bò tót và những cuộc chiến của những dũng sĩ - có từ thời xa xưa…
Ta vẫn hi vọng, và điều đó là chính đáng, một ngày nào đó mang không chỉ các sáng tác xuất sắc của ta góp vào kho tàng văn học thế giới, mà còn các tác phẩm phê bình, nghiên cứu, thậm chí (tại sao không?) các tư tưởng về lí luận phê bình của ta đối sánh với trí tuệ nhân loại, khẳng định và khiến tha nhân “tâm phục khẩu phục”. Chắc đường tới đó còn dài, rất dài.
Lý thuyết ký hiệu của Jacques Derrida thuộc trào lưu hậu cấu trúc luận, đối lập với cấu trúc luận của Saussure. Theo nhà ngôn ngữ học này thì cái biểu đạt (hình thức của ký hiệu) trực quy về cái được biểu đạt (nội dung của ký hiệu) và chuyên chở mọi tư tưởng ngôn tâm luận (logocentrisme: lấy lời nói làm trung tâm, dĩ ngôn vi trung). Derrida chủ trương đánh đổ lịch sử siêu hình vốn vận hành theo phương thức đối lập. Ông chủ trương giải kiến tạo luận để đặt lại vấn đề về tính cố định của cấu trúc và từ đó chủ trương sự vắng bóng của cấu trúc, của trung tâm, của đơn nghĩa. Quan hệ trực tiếp giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không còn đứng vững nữa, và như vậy, từ cái biểu đạt này sang cái biểu đạt khác, có những sự trượt nghĩa vô hạn.
“Phản chiêu hồn” là một bài thơ có tứ độc đáo đặc biệt mà cổ kim không có. Thông thường thì người ta làm văn cúng tế gọi hồn về, mà Nguyễn Du lại làm thơ bảo hồn đừng về. Và Nguyễn Du đã có lý. Sự lưu truyền của bài thơ mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.